Bạn đang xem bài viết Bí Ẩn Phong Thủy Dòng Họ Khoa Bảng – P2: Lòng Nhân Hậu Cảm Động Trời Đất được cập nhật mới nhất trên website Globalink.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Họ Ngô ở Vọng Nguyệt, Tam Giang, Yên Phong, xứ Kinh Bắc, được mệnh danh là “ngũ đại liên trúng” tức là có 5 đời liên tiếp đỗ đại khoa. Nhưng nếu tính cả chi thứ thì dòng họ này có đến 10 đời đỗ đại khoa, với 5 đời phát tiến sĩ ở chi trưởng và 5 đời phát tiến sĩ ở chi thứ, đều được ghi chép trong “Hợp phả Ngô lệnh tộc” của dòng họ này…
Tiếp theo phần 1
Như trong kỳ trước có đề cập, gốc tích của họ Ngô xứ Kinh Bắc là sau vụ án Lệ Chi Viên, bà Ngô Thị Ngọc Dao là vợ vua Lê Thái Tông mất đi sự che chở và giúp đỡ của Nguyễn Trãi, bị phát khứ đi xa. Cụ Ngô Nguyên vốn có bà con với bà Ngô Thị Ngọc Dao phải lánh nạn về làng Vọng Nguyệt, được quan cả tên là Chu Đình Cần che dấu, giúp đỡ, sau lại gả con gái là Chu Thị Bột cho làm vợ.
Năm 1460, con trai của bà Ngô Thị Ngọc Dao là Lê Tư Thành lên ngôi vua hiệu là Lê Thánh Tông. Đến năm 1464 thì nhà vua minh oan cho Nguyễn Trãi, từ đó ông Ngô Nguyên trở về kinh thành mà không thấy trở lại nữa.
Tấm lòng nhân hậu cảm động trời đất
Ở quê nhà, bà Chu Thị Bột hay lam hay làm lại giỏi giang nên của cải trong nhà ngày càng nhiều, trở thành người giàu có trong vùng. Khi ấy vùng Kinh Bắc mất mùa, người dân đói khát, bà Chu Thị Bột đã cho phát chẩn lương thực cứu đói. Người dân Kinh Bắc kháo nhau tìm bà cụ để nhận thóc, nhờ đó người dân Kinh Bắc thoát được những ngày tháng khó khăn. Cũng từ đó người dân gọi bà Chu Thị Bột là “cụ thí thóc”.
Thế nhưng khi bà Chu Thị Bột bố thí hết của cải để cứu dân thì mất mùa vẫn liên tiếp xảy ra, lại cộng thêm dịch bệnh hoành hoành, nên bà lâm vào cảnh khó khăn vất vả, lâm bệnh nặng. Biết mình không qua khỏi, bà dặn con cháu rằng khi bà mất thì hãy chôn ở cánh đồng Hàn Phấn.
“Cụ thí thóc” mất vào ngày 17 tháng Giêng mà không còn một chút của cải nào để lại, điều duy nhất bà để lại là “đức” cho con cháu.
Con cháu nghe lời bà dặn, đến tối đưa bà đi an táng, đến cánh đồng Hán Phấn thì đột nhiên mưa to gió lớn, sấm chớp nổi lên đùng đoàng, dây thừng bị đứt khiến không thể chôn cất được. Thấy thế con cháu bảo nhau nên về đến sáng hôm sau quay lại chôn cất cho bà.
Sáng hôm sau con cháu trở lại thì thấy chỗ đặt thi hài bà hôm trước mối đã đùn cao thành đống mồ. Tất cả đều cho rằng đây là đất thiêng nên mới được “thiên táng”, nên mọi người cứ đắp tiếp thành mộ.
Sau này nhiều người cho rằng, chính vì được thiên táng nên bà Chu Thị Bột đã phù hộ cho con cháu họ Ngô được hiển vinh lâu dài trên đường học vấn.
Vua Lê khi nghe câu chuyện này đã phong cho bà bốn chữ vàng: “Phụ tiết tinh môn”. Còn người dân thì không ai quên được “cụ thí thóc” nên cứ đến ngày 17 tháng Giêng hàng năm người dân khắp vùng lại đến thăm ngôi mộ. Họ đến đây thắp hương, hát ca trù, và nghe kể câu chuyện về bà Chu Thị Bột năm xưa đã phân phát thóc và toàn bộ gia tài của mình để cứu đói cho dân…
Đến tận ngày nay ngôi mộ “thiên táng” vẫn còn di tích nguyên trạng. Năm 2008, họ Ngô đã xây lăng cho bà theo mẫu 8 phương 10 hướng 4 cửa chính ra vào.
Tiên tích đức hậu tầm long
Sau khi bà Chu Thị Bột mất, hai người con là Ngô Ngọc và Ngô Định còn nhỏ gặp cảnh khó khăn. Người cậu nhận nuôi Ngô Ngọc để giữ dòng trưởng, sau này đỗ khai khoa mở đầu cho “Ngũ đại liên trúng” của dòng họ mình, ngoài ra còn có 59 người đỗ tú tài. Còn Ngô Định thì được một người quê ở Nghệ An đang trong quân ngũ ở Kinh Bắc nhận nuôi, sau này đến sinh sống tại Lý Trai – Nghệ An (nay thuộc xã Diễn Kỷ, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An) lập ra dòng thứ họ Ngô lệnh tộc ở đây và được gọi là họ Ngô Lý Trai.
Về câu chuyện phong thủy của dòng chính thì kỳ trước chúng ta đã đề cập. Còn dòng thứ thì sau 5 đời kể từ cụ tổ Ngô Nguyên, họ Ngô ở Nghệ An bắt đầu phát khoa bảng. Người đỗ khai khoa cho dòng họ Ngô Lý Trai là hai cha con cụ Ngô Trí Tri và Ngô Trí Hòa.
Đây là khoa thi duy nhất có hai cha con cùng đỗ đại khoa. Khi “vinh quy bái tổ”, nhà vua tặng cho hai cha con một bức trướng hồng có thêu mười chữ vàng là “Khoa danh thiên hạ hữu, phụ tử thế gian vô”, nghĩa là việc khoa bảng trong thiên hạ thì đều có, nhưng hai cha con cùng đỗ một khoa thì thế gian chưa từng.
Sau đó dòng chi thứ cũng có 5 đời liền đỗ đại khoa và làm quan to trong triều. Dòng họ Ngô Lý Trai có truyền thống học hành, thi cử và đỗ đạt nổi danh cả nước, được vua Lê xếp vào dòng họ công thần, có 18 người đỗ đạt từ Tam trường trở lên, trong đó có 6 tiến sỹ là Ngô Trí Tri, Ngô Trí Hòa, Ngô Sỹ Vinh, Ngô Quang Tổ, Ngô Công Trạc và Ngô Hưng Giáo.
Phan Huy Chú trong cuốn “Lịch triều hiến chương loại chí” có nhận định về Ngô Trí Hòa như sau:
“Ông học vấn hơn người, chính thuật có thừa, trải khắp trong ngoài đối xử chỗ nào cũng vừa; công lao tiếng tăm rõ rệt. Lại là bậc danh thần của ba triều, cha con đồng khoa, phúc nhà lâu dài, càng là việc xưa nay ít thấy”.
Bài học cho hậu thế
Một gốc trăm cành nẩy họ Ngô Chuyện bà thí thóc để muôn thu Mất mùa thương kẻ ăn rau cháo Làm phúc đến lúc dốc bịch bồ Hai chữ vinh hoa bia miệng dệt Năm đời liên trúng phấn son tô Còn trời còn đất còn non nước Thóc tổ còn nhiều chẳng phải lo.
Cổ nhân có câu “tiên tích đức, hậu tầm long”, tức trước tiên phải tích đức thì sau này mới “tầm long”. Vì thế nếu không tích đức thì dù cố công tìm kiếm cũng không có được đất tốt.
Nhiều dòng họ phát công danh do phong thủy, cũng là nhờ tổ tiên trước đây đã tích nhiều công đức. Người có nhiều đức thậm chí nếu không có duyên tìm được đất tốt, thì cũng sẽ được “thiên táng” vào đất tốt như câu chuyện về cụ Chu Thị Bột.
Xem phần 3
Trần Hưng
Mời xem video:
Bí Ẩn Phong Thủy Của Vùng Đất Vương Gia
Với sự đắc địa về phong thủy, vùng đất này là nơi phát tích 9 đời chúa và 13 đời vua.
Cho đến nay ở Việt Nam chưa có ai sánh được danh tiếng về tài tiên tri và những sấm ký lưu truyền theo dòng lịch sử của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Ông giúp đỡ không chỉ riêng chúa Nguyễn dựng nghiệp lớn với 9 đời chúa, 13 đời vua, mà vạch đường cho chúa Trịnh biết cách “thờ Phật ăn oản”, cho nhà Mạc chạy về “ẩn tại Cao Bằng”. Từ đâu mà Trạng Trình tiên đoán về thế sự và các vùng đất “ẩn long” hoặc sẽ “vạn đại dung thân” chính xác như thế?
Nhà tiên tri bên sông Tuyết Hàn
Có thể nói, ngoài tài năng thiên phú “bất khả tư nghì” ra, ông còn được “đề dẫn” từ lúc trẻ bởi hai nhân vật lớn trong đời ông: người mẹ và người thầy của ông. Về người mẹ, thân mẫu của Trạng là bà Nhữ Thị Thục (con gái của quan thượng thư Nhữ Văn Lan) là người tinh thông về khoa chiêm tinh và dịch lý, đã tự chấm lấy lá số tương lai và biết mình sẽ sinh quý tử.
Nhưng muốn vậy, bà cần phải kết duyên với một người nào đó có cung mệnh tương ứng nên đợi chờ mãi đến ngưỡng cửa của tuổi 30 vẫn chưa lấy ai. Cuối cùng, bà quyết định tự tìm đến ông đồ nho nhà nghèo Nguyễn Văn Định để kết duyên, vì bà đã nhìn ra ông đồ ở chốn thôn dã này là người sẽ cùng bà sinh ra một nhân tài.
Tương truyền trong đêm hợp hôn có trăng sáng, bà ra ngoài trời lấy một cây trúc cắm giữa sân và dặn ông Văn Định khi nào ánh trăng chiếu xuống không còn thấy bóng dưới gốc trúc nữa mới được vào động phòng hoa chúc. Nhưng ông Văn Định không đợi được, đã vội vào ăn nằm với bà khi dưới gốc trúc vẫn còn một chút bóng soi, nên bà trách chồng và bảo nôn nóng như thế chỉ sinh được người con đỗ Trạng, chứ không gây dựng nên nghiệp đế.
Người con đó là Nguyễn Bỉnh Khiêm sinh năm 1491, đỗ Trạng nguyên năm 1535 thời Mạc, làm quan đến Thượng thư Bộ Lại, Thái phó, là thầy dạy học của Thái tử Mạc Phúc Hải, được phong tước Trình Tuyền hầu, Trình Quốc công, nên người đời thường gọi Trạng Trình và những tiên tri của ông được tập hợp với tựa: Trình Quốc công sấm ký…
Sau này, khi biết trước sự nhiễu nhương của thời cuộc bên ngoài và đầu mối suy sụp trong nội tình nhà Mạc, Trạng Trình đã dâng sớ xin chém 18 kẻ lộng hành nhưng Vua Mạc không chấp thuận, sau đó ông treo mũ từ quan về quê, dựng am Bạch Vân bên bờ sông Tuyết Hàn.
“Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân”
Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân.
Nguyễn Hoàng là con trai của Nguyễn Kim. Nguyễn Kim là người có công lớn đã tập hợp quân tướng khởi nghĩa chống nhà Mạc cướp ngôi và giúp nhà Lê giành được đất Thanh Hóa, Nghệ An – lập nên triều Lê trung hưng. Sau Nguyễn Kim bị tướng nhà Mạc đầu độc chết, quyền hành về tay con rể là Trịnh Kiểm.
Trịnh Kiểm lo sợ các con trai của Nguyễn Kim (là Nguyễn Uông và Nguyễn Hoàng) tranh mất quyền của mình nên đã tìm cách ám hại Nguyễn Uông trước. Thấy vậy Nguyễn Hoàng rất lo sợ, xem mình như chim cá trong lồng son, có ngày sẽ bị ám hại như anh mình (Nguyễn Uông).
Vì thế Nguyễn Hoàng đã bí mật sai sứ giả tìm cách lặn lội ra ngoài Bắc, đến yết kiến Trạng Trình xin sấm giải. Trạng Trình dạy: “Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân”. Vâng theo lời ấy, Nguyễn Hoàng nhờ chị ruột là Nguyễn Thị Ngọc Bảo (vợ Trịnh Kiểm) xin với Trịnh Kiểm cho mình vượt Hoành sơn vào trấn thủ vùng Thuận Hóa để tránh xa “dao thớt” của người anh rể họ Trịnh.
Được Trịnh Kiểm đồng ý và Vua Lê cho phép, Nguyễn Hoàng đem gia quyến rời Thanh Hóa năm 34 tuổi (Mậu Ngọ 1558) và cùng tùy tướng của mình chỉ huy hàng nghìn quân bản bộ vượt biển để lại dải Hoành sơn phía sau, tiến về phương Nam ở phía trước, vào thẳng cửa Yên Việt, đóng dinh ở gò Phù Sa, xã Ái Tử, huyện Vũ Xương, thuộc địa phận tỉnh Quảng Trị ngày nay.
Những thập niên đầu trên vùng đất mới, Nguyễn Hoàng ra sức khai hoang lập ấp, ổn định dân tình, giữ quan hệ thuận thảo với Vua Lê, Chúa Trịnh ngoài Bắc, được Vua Lê sắc phong làm Thái phó và giao toàn quyền quyết định mọi việc ở vùng Thuận Hóa, hằng năm nộp thuế 400 cân vàng bạc và 500 tấn lúa.
Nguyễn Hoàng mất năm Quý Sửu 1613, thọ 89 tuổi, trấn thủ đất Thuận Hóa – Quảng Nam trong 56 năm (được truy tôn là Thái tổ Gia dụ hoàng đế), có 10 người con trai. Trước khi mất, Nguyễn Hoàng dặn lại con cháu phải hết sức giữ gìn đất Thuận Quảng vì đó là nơi phía Bắc có Hoành Sơn với thế núi chắn ngang che chở, phía Nam có Hải Vân hùng vĩ là yết hầu đưa sinh khí vào “vùng đất vương gia” (tức kinh thành Phú Xuân – Huế sau này). Có giữ vững Thuận Quảng mới mong dựng nên cơ nghiệp muôn đời như sấm ký của Trạng Trình truyền lại “Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân”.
Theo các nhà viết sử có uy tín như Trần Trọng Kim thì “núi Hoành sơn tức núi Đèo Ngang ở Quảng Bình” vốn là một nhánh của dãy Trường Sơn đột nhiên kéo đâm ra sát biển. Đứng từ đỉnh cao nhất của Hoành Sơn (khoảng 250m) nhìn bao quát sẽ thấy hiện lên dưới tầm mắt màu xanh ngút ngàn của rừng núi phía Tây, biển rộng mênh mông trải dài như tấm thảm xanh về phía Đông, thấp thoáng những hòn đảo nhỏ nhô lên mặt nước như đang chầu về “sơn lâm”.
Con đường xuyên Đèo Ngang thời trước nằm trên đường thiên lý, cách Đồng Hới khoảng 80 cây số, chạy ngoằn ngoèo qua các sườn đồi cheo leo, men theo vực sâu, đưa người hành trình theo chiều dọc từ hướng Bắc vào Nam. Nhìn dưới góc độ phong thủy, Hoành Sơn đi vào các tài liệu nghiên cứu về địa lý xưa và cả thời nay.
Ngay các tác giả người nước ngoài như học giả Léopold Cadière, chủ bút tạp chí Bulletin des Amis du Vieux Hue, khi luận về các chi tiết phong thủy ứng dụng xây kinh thành Huế đã nhắc đến “Hoành Sơn che chở” từ xa đối với nhà Nguyễn. Những nhà sử học, địa lý học khi viết đến lịch sử triều Nguyễn đều nhắc đến “Hoành Sơn” thời khởi nghiệp.
Nhà phong thủy học Cao Trung khi luận về long mạch trong Tả Ao địa lý toàn thư đã đưa “Hoành Sơn” vào nội dung phân tích và nêu rõ hai phần trong khoa địa lý gồm: Loan đầu và Lý khí. Phần Loan đầu là những gì mắt ta nhìn thấy trên đất đai của toàn thể một cuộc đất kết, hoặc một dòng nước thuận nghịch, một thế núi quanh co.
Nếu cơ nghiệp Chúa Trịnh mở đầu với mối liên hệ về một cuộc đất thuộc vùng “thủy” (nước), thì cơ nghiệp chúa Nguyễn mở đầu với mối liên hệ thuộc vùng “sơn” (núi). Nói về “sơn”, cụ Tả Ao diễn giải nếu thấy núi hình thành theo dạng “một vòng bọc lại” (nhất trùng bão khóa) rồi “một vòng mở ra” (nhất trùng khai) thì ở đó có đất công hầu.
Nếu lại thấy một dạng núi “vòng ôm” (nhất sơn loan bão) rồi “ngoảnh lại” (nhất sơn cố) là ở đó có đất công khanh. Trong tập “Địa lý gia truyền”, cụ Tả Ao cũng chỉ rõ nếu thấy núi cao bao quanh một vùng thì hãy tìm huyệt ở chỗ thấp (chúng sơn cao tầm đê) – còn chung quanh đều thấp thì hãy tầm huyệt ở chỗ cao (chúng sơn đê tầm cao).
Bí Ẩn Phong Thủy Của “Vùng Đất Các Vương Gia”
Với sự đắc địa về phong thủy, vùng đất này là nơi phát tích 9 đời chúa và 13 đời vua.
Cho đến nay ở Việt Nam chưa có ai sánh được danh tiếng về tài tiên tri và những sấm ký lưu truyền theo dòng lịch sử của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Ông giúp đỡ không chỉ riêng chúa Nguyễn dựng nghiệp lớn với 9 đời chúa, 13 đời vua, mà vạch đường cho chúa Trịnh biết cách “thờ Phật ăn oản”, cho nhà Mạc chạy về “ẩn tại Cao Bằng”. Từ đâu mà Trạng Trình tiên đoán về thế sự và các vùng đất “ẩn long” hoặc sẽ “vạn đại dung thân” chính xác như thế?
Nhà tiên tri bên sông Tuyết HànCó thể nói, ngoài tài năng thiên phú “bất khả tư nghì” ra, ông còn được “đề dẫn” từ lúc trẻ bởi hai nhân vật lớn trong đời ông: người mẹ và người thầy của ông. Về người mẹ, thân mẫu của Trạng là bà Nhữ Thị Thục (con gái của quan thượng thư Nhữ Văn Lan) là người tinh thông về khoa chiêm tinh và dịch lý, đã tự chấm lấy lá số tương lai và biết mình sẽ sinh quý tử.
Nhưng muốn vậy, bà cần phải kết duyên với một người nào đó có cung mệnh tương ứng nên đợi chờ mãi đến ngưỡng cửa của tuổi 30 vẫn chưa lấy ai. Cuối cùng, bà quyết định tự tìm đến ông đồ nho nhà nghèo Nguyễn Văn Định để kết duyên, vì bà đã nhìn ra ông đồ ở chốn thôn dã này là người sẽ cùng bà sinh ra một nhân tài.
Tương truyền trong đêm hợp hôn có trăng sáng, bà ra ngoài trời lấy một cây trúc cắm giữa sân và dặn ông Văn Định khi nào ánh trăng chiếu xuống không còn thấy bóng dưới gốc trúc nữa mới được vào động phòng hoa chúc. Nhưng ông Văn Định không đợi được, đã vội vào ăn nằm với bà khi dưới gốc trúc vẫn còn một chút bóng soi, nên bà trách chồng và bảo nôn nóng như thế chỉ sinh được người con đỗ Trạng, chứ không gây dựng nên nghiệp đế.
Người con đó là Nguyễn Bỉnh Khiêm sinh năm 1491, đỗ Trạng nguyên năm 1535 thời Mạc, làm quan đến Thượng thư Bộ Lại, Thái phó, là thầy dạy học của Thái tử Mạc Phúc Hải, được phong tước Trình Tuyền hầu, Trình Quốc công, nên người đời thường gọi Trạng Trình và những tiên tri của ông được tập hợp với tựa: Trình Quốc công sấm ký…
Sau này, khi biết trước sự nhiễu nhương của thời cuộc bên ngoài và đầu mối suy sụp trong nội tình nhà Mạc, Trạng Trình đã dâng sớ xin chém 18 kẻ lộng hành nhưng Vua Mạc không chấp thuận, sau đó ông treo mũ từ quan về quê, dựng am Bạch Vân bên bờ sông Tuyết Hàn.
“Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân” Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân.Nguyễn Hoàng là con trai của Nguyễn Kim. Nguyễn Kim là người có công lớn đã tập hợp quân tướng khởi nghĩa chống nhà Mạc cướp ngôi và giúp nhà Lê giành được đất Thanh Hóa, Nghệ An – lập nên triều Lê trung hưng. Sau Nguyễn Kim bị tướng nhà Mạc đầu độc chết, quyền hành về tay con rể là Trịnh Kiểm.
Trịnh Kiểm lo sợ các con trai của Nguyễn Kim (là Nguyễn Uông và Nguyễn Hoàng) tranh mất quyền của mình nên đã tìm cách ám hại Nguyễn Uông trước. Thấy vậy Nguyễn Hoàng rất lo sợ, xem mình như chim cá trong lồng son, có ngày sẽ bị ám hại như anh mình (Nguyễn Uông).
Vì thế Nguyễn Hoàng đã bí mật sai sứ giả tìm cách lặn lội ra ngoài Bắc, đến yết kiến Trạng Trình xin sấm giải. Trạng Trình dạy: “Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân”. Vâng theo lời ấy, Nguyễn Hoàng nhờ chị ruột là Nguyễn Thị Ngọc Bảo (vợ Trịnh Kiểm) xin với Trịnh Kiểm cho mình vượt Hoành sơn vào trấn thủ vùng Thuận Hóa để tránh xa “dao thớt” của người anh rể họ Trịnh.
Được Trịnh Kiểm đồng ý và Vua Lê cho phép, Nguyễn Hoàng đem gia quyến rời Thanh Hóa năm 34 tuổi (Mậu Ngọ 1558) và cùng tùy tướng của mình chỉ huy hàng nghìn quân bản bộ vượt biển để lại dải Hoành sơn phía sau, tiến về phương Nam ở phía trước, vào thẳng cửa Yên Việt, đóng dinh ở gò Phù Sa, xã Ái Tử, huyện Vũ Xương, thuộc địa phận tỉnh Quảng Trị ngày nay.
Những thập niên đầu trên vùng đất mới, Nguyễn Hoàng ra sức khai hoang lập ấp, ổn định dân tình, giữ quan hệ thuận thảo với Vua Lê, Chúa Trịnh ngoài Bắc, được Vua Lê sắc phong làm Thái phó và giao toàn quyền quyết định mọi việc ở vùng Thuận Hóa, hằng năm nộp thuế 400 cân vàng bạc và 500 tấn lúa.
Nguyễn Hoàng mất năm Quý Sửu 1613, thọ 89 tuổi, trấn thủ đất Thuận Hóa – Quảng Nam trong 56 năm (được truy tôn là Thái tổ Gia dụ hoàng đế), có 10 người con trai. Trước khi mất, Nguyễn Hoàng dặn lại con cháu phải hết sức giữ gìn đất Thuận Quảng vì đó là nơi phía Bắc có Hoành Sơn với thế núi chắn ngang che chở, phía Nam có Hải Vân hùng vĩ là yết hầu đưa sinh khí vào “vùng đất vương gia” (tức kinh thành Phú Xuân – Huế sau này). Có giữ vững Thuận Quảng mới mong dựng nên cơ nghiệp muôn đời như sấm ký của Trạng Trình truyền lại “Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân”.
Theo các nhà viết sử có uy tín như Trần Trọng Kim thì “núi Hoành sơn tức núi Đèo Ngang ở Quảng Bình” vốn là một nhánh của dãy Trường Sơn đột nhiên kéo đâm ra sát biển. Đứng từ đỉnh cao nhất của Hoành Sơn (khoảng 250m) nhìn bao quát sẽ thấy hiện lên dưới tầm mắt màu xanh ngút ngàn của rừng núi phía Tây, biển rộng mênh mông trải dài như tấm thảm xanh về phía Đông, thấp thoáng những hòn đảo nhỏ nhô lên mặt nước như đang chầu về “sơn lâm”.
Con đường xuyên Đèo Ngang thời trước nằm trên đường thiên lý, cách Đồng Hới khoảng 80 cây số, chạy ngoằn ngoèo qua các sườn đồi cheo leo, men theo vực sâu, đưa người hành trình theo chiều dọc từ hướng Bắc vào Nam. Nhìn dưới góc độ phong thủy, Hoành Sơn đi vào các tài liệu nghiên cứu về địa lý xưa và cả thời nay.
Ngay các tác giả người nước ngoài như học giả Léopold Cadière, chủ bút tạp chí Bulletin des Amis du Vieux Hue, khi luận về các chi tiết phong thủy ứng dụng xây kinh thành Huế đã nhắc đến “Hoành Sơn che chở” từ xa đối với nhà Nguyễn. Những nhà sử học, địa lý học khi viết đến lịch sử triều Nguyễn đều nhắc đến “Hoành Sơn” thời khởi nghiệp.
Nhà phong thủy học Cao Trung khi luận về long mạch trong Tả Ao địa lý toàn thư đã đưa “Hoành Sơn” vào nội dung phân tích và nêu rõ hai phần trong khoa địa lý gồm: Loan đầu và Lý khí. Phần Loan đầu là những gì mắt ta nhìn thấy trên đất đai của toàn thể một cuộc đất kết, hoặc một dòng nước thuận nghịch, một thế núi quanh co.
Nếu cơ nghiệp Chúa Trịnh mở đầu với mối liên hệ về một cuộc đất thuộc vùng “thủy” (nước), thì cơ nghiệp chúa Nguyễn mở đầu với mối liên hệ thuộc vùng “sơn” (núi). Nói về “sơn”, cụ Tả Ao diễn giải nếu thấy núi hình thành theo dạng “một vòng bọc lại” (nhất trùng bão khóa) rồi “một vòng mở ra” (nhất trùng khai) thì ở đó có đất công hầu.
Nếu lại thấy một dạng núi “vòng ôm” (nhất sơn loan bão) rồi “ngoảnh lại” (nhất sơn cố) là ở đó có đất công khanh. Trong tập “Địa lý gia truyền”, cụ Tả Ao cũng chỉ rõ nếu thấy núi cao bao quanh một vùng thì hãy tìm huyệt ở chỗ thấp (chúng sơn cao tầm đê) – còn chung quanh đều thấp thì hãy tầm huyệt ở chỗ cao (chúng sơn đê tầm cao).
Theo Hôn nhân & Pháp luật
Bài Trí Phong Thủy Cho Cửa Hàng Kinh Doanh (P2)
4. Địa điểm – kích cỡ cửa hàng
Xuất phát từ điều kiện tài chính, nhu cầu cung cấp, dự đoán khả năng tiêu thụ, điều kiện dân trí khu vực và khả năng cung cấp của các cửa hàng khác trong khu vực mà lựa chọn cửa hàng cho phù hợp, mặt khác phải dựa trên tính chất của cửa hàng (sản phẩm phục vụ dân sinh của cửa hàng) mà lựa chọn vị trí cho phù hợp.
Ví dụ: Hàng xa xỉ, hàng Shop, hàng có giá trị nên chọn khu đông đúc, dân trí có mặt bằng thu nhập cao
Hàng dịch vụ, nhà nghỉ, mát xa … chọn nơi thuận tiện mà kín đáo
Hàng vật liệu xây dựng, cơ khí thiết bị máy móc lớn chọn nơi tiện giao thông, đỗ xe…
Cửa hàng là nơi trao đổi mua bán, cũng là nơi quan trọng để thu nạp tài khí. Gian hàng quyết định sự vượng suy của cửa hàng. Không nên quá hẹp (so với nhu cầu sử dụng) không có lợi cho việc nạp khí, giảm sinh khí của cửa hàng ảnh hưởng xấu đến tài khí thậm chí còn “mời gọi” vận khí xấu (tà khí).
* Những chú ý khi chọn cửa hàng
– Không chọn cửa hàng ở những vị trí xung sát như đường đâm thẳng, phía ngoài đường vòng cung, trong ngõ cụt, trước mặt có cây lớn, cột điện cao thế, ống khói, tháp nước, bãi tha ma, hoặc góc đường hình chữ T, chữ Y.
Song nếu biết cách khắc phục thì ở những cửa hàng trước mặt có đường giao nhau chữ T, chữ Y lại là những nơi đông đúc.
Nếu gặp phải những trường hợp như trên bạn nên:
– Bố trí bình phong (dạng tường vải) trước cửa hàng có hình chữ T hoặc chữ Y
– Di chuyển cửa ra vào sang mặt bên để ngăn chặn và tránh sát khí
– Trồng hoa, cây cảnh phía trước cửa hàng (nếu có thể) làm tăng sinh khí cho cửa hàng cũng như giảm bớt ô nhiễm, bụi bẩn
– Thay đổi cục diện phong thuỷ như trên mà vẫn bụi bẩn nên thường xuyên vẩy nước trước cửa hàng giữ cho không khí thêm tươi mát trong lành tạo thuận lợi cho sự thúc đẩy sinh khí,tài vận của cửa hàng.
* Quan sát, bố trí Minh đường của cửa hàng
– Minh đường (khoảng trống trước cửa hàng) là vô cùng quan trọng. Minh đường đủ rộng thì cửa hàng không bị chèn ép, tụ khí, tài vận sẽ tốt; rộng rãi thì rất tốt. Ví dụ cửa hàng nhỏ mà hè phố rộng rãi rất đông khách thuận tiện kinh doanh.
– Minh đường được phân thành: Ngoại Minh đường, trung Minh đường, nội Minh đường (ngoài đường, sân trước cửa hàng, trong đại sảnh cửa hàng)
– Minh đường phải bằng phẳng, hơi cao và rộng. Một cửa hàng có bố cục như thế thì rất tốt, tiền của sẽ liên tục đổ về.
– Minh đường rộng rãi, không bị che chắn, khắc chế sẽ tạo điều kiện cho sự tiếp nhận sinh khí ở bốn phương tám hướng. Rất thuận lợi cho người qua lại chú ý tới cửa hàng có lợi cho việc truyền thông quảng bá sản phẩm với khách hàng
– Nếu cửa hàng sát đường quá nên bố trí lùi lại (tạo Minh đường) hình thành thế lõm sẽ thu hút tài khí tốt
5. Biển hiệu – Logo cửa hàng
Biển hiệu – Logo cửa hàng là biểu hiện tín hiệu cửa hàng hoặc công ty là nới tập trung ấn tượng thu hút nhân khí.
Logo cửa hàng phù hợp còn tạo sự đồng thuận cho nhân viên cửa hàng
Biển cửa hàng là tên gọi cửa hàng nhìn vào khách hàng có thể biết được những mặt hàng mà cửa hàng phục vụ. Biển hiệu phải phù hợp với cung mệnh của ngành hàng và mệnh quái của chủ cửa hàng.
Biển hiệu – Logo phù hợp tạo cảm giác mỹ quan, ấn tượng hấp dẫn tâm lý khách hàng…
Thiết kế biển hiệu cần chú ý đến những vấn đề sau:
– Tên gọi cửa hàng
– Kích thước, màu sắc, chất liệu, kiểu chữ phải dựa trên cơ sở mệnh quái, ngành hàng và hướng cửa hàng để thiết kế.
– Chiều cao của biển hiệu không quá cao, quá dài, rộng. Thông thường cao tối đa 2 mét, rộng không vượt quá bề ngang mặt tiền
– Biển hiệu dọc tối đa cao quá 4mét, ngang không qúa 0,6mét, không vi phạm chỉ giới xây dựng, phải có khung sắt…
– Biển hiệu phải có màu sắc phù hợp, hài hoà thể hiện được ngôn ngữ ngành hàng, cung mệnh chủ cửa hàng và ý tưởng phát triển…
– Biển hiệu có thể làm bằng các chất liệu như tôn, gỗ, khung thép, giấy cứng, vải, hoặc có thể là đèn màu kết thành, đèn nêon (tuýp) uốn thành tạo ấn tượng, kích thích thị giác khách hàng…
6. Tủ hàng và màu sắc hợp lý
* Tủ hàng
– Tủ hàng tượng trưng cho tài khố của cửa hàng, là nơi trưng bày những sản phẩm của cửa hàng cần phải gọn gàng ngăn nắp, sạch sẽ, đẹp đẽ…
– Nên đặt ở phương sinh khí ở vị trí “thanh long” (bên trái cửa hàng). Sinh khí luôn khuấy động tạo trường khí tốt cho cửa hàng
– Sử dụng ánh sáng phù hợp làm thăng hoa giá trị của sản phẩm kích thích tâm lý khách hàng góp phần thúc đẩy tài vận
* Màu sắc cửa hàng
Việc bố trí màu sắc cửa hàng như trần tường, biển hiệu và hàng hoá là rất quan trọng tạo sự thu hút, hấp dẫn khách hàng… tạo cảm giác “mời gọi” sinh khí.
Việc bố trí màu sắc trang trí sắp đặt dựa trên những yếu tố thuộc tính ngũ hành của sản phẩm; hướng ngôi nhà; ngày sinh của chủ cửa hàng. Cần quy sản phẩm về thuộc tính ngũ hành như kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ sau đó dựa vào mệnh quái của chủ cửa hàng để bố trí sắp đặt màu sắc trang trí cho phù hợp hấp dẫn sinh khí thúc đẩy tài vận cho cửa hàng.Chuyên gia phong thủy Ái Nhân – Bùi Cao Thế(Theo Archi)
Cập nhật thông tin chi tiết về Bí Ẩn Phong Thủy Dòng Họ Khoa Bảng – P2: Lòng Nhân Hậu Cảm Động Trời Đất trên website Globalink.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!