Bạn đang xem bài viết Dấu Tích Hai Nhà Phong Thủy Cao Biền được cập nhật mới nhất tháng 12 năm 2023 trên website Globalink.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
May mắn, làng Nam Trì còn được đích thân hai thầy phong thủy nảy chọn đất xây đình, đặt cửa đê ngirời làng vể sau phát đmrng công danh, tài lộc. Nhung chẳng hiểu vì sao việc chọn đất, xây đình đểu theo ý của hai thầy phong thủy này nhung con đường khoa cử công danh của người dân trong làng không được như ý. Suốt lịch sử khoa cử phong kiến Việt Nam, số ngirờỉ làng đậu đạt lại vô cùng hiếm hoi, ngày nay SỊT học càng tụl dốc khỉ đa số dân làng đểu theo nghề nông, bán sức lao động để kiếm sống.
Đất “phượng hoàng ngậm thư” …mãi không phát!?
Làng Nam Trì hiện nay không nhà cổ, cũng chẳng từ đường bề thế như tưởng tượng về những ngôi làng cổ nổi danh khoa bảng mà chúng tôi vẫn thường gặp. cả làng Nam Trì là hệ thống các ngôi nhà ngói đơn sơ, san sát nhau gọi cho người ta nhớ về những gian nhà của một thời bao cấp đã xa. Khung cảnh của ngôi làng cổ này như muốn mách hết cho những vị khách thập phương như chúng tôi về đời sống kinh tế còn bộn bề khó khăn, vất vả. Chính vẻ bề ngoài của làng Nam Trì đã mang đến sự bất ngờ đến khó tin cho chúng tôi trong chuyến hành trình tìm hiểu văn hóa ở nơi được ca tụng là có thế đất “phượng hoàng ngậm thư”.
Từ xưa, vị trí đắc địa của ngôi làng cổ này đã đuợc ca tụng và nổi danh suốt chiều dài lịch sử. Vị trí đắc địa này còn được hai thầy địa lý là Cao Biền và Tả Ao đánh giá rất cao.
Tương truyền với thế đất “phượng hoàng ngậm thư” thì đây là vùng địa linh, nơi sản sinh nhiều bậc văn nhân tài danh cho đất nước. Cũng theo tương truyền, chính vì địa thế hiếm có này đã khiến Cao Biền và Tả Ao bỏ công, bỏ sức giúp làng chọn đất xây đình, mong dân làng sớm có nguời vinh hiển. Cũng chính vì những câu chuyện phong thủy ly kỳ trên mà không ít người chưa một lần đặt chân đến Nam Trì đều nghĩ rằng đây phải là làng khoa bảng, nơi xuất thân của nhiều bậc hiền tài.
Tuy nhiên, trong chuyến khám phá ngôi làng cổ này, những gì chúng tôi thu thập được lại khác xa với sự tuởng tượng ban đầu. Nói về khoa cử công danh thì làng Nam Trì chưa hề được phất lên, thậm chí còn thua xa nhiều làng cổ khác ở đồng bằng Bắc Bộ. Số người đậu đạt xuyên suốt cả lịch sử khoa cử thời phong kiến cũng chỉ có một hai người. Điều này được xem là không hề tương xứng với những gì suốt nhiều thế hệ ca tụng vị trí phong thủy đắc địa của ngôi làng cổ này.
Để tìm hiểu sâu hơn nghịch cảnh khoa cử so với vị trí đắc địa của làng Nam Trì. chúng tôi đã tìm đến ngôi đình nơi duy nhất hiện nay thờ Cao Biền và Tả Ao – hai người nổi tiếng giỏi về địa lý làm thành hoàng làng.
Theo quan sát của chúng tôi, đình làng Nam Trì hiện nay được xây trên một gò đất bao quanh hoàn toàn là nước, lối vào duy nhất là cây cầu bê tông nối đình với đường làng. Vị trí ngôi đình này được xây lại trên khuôn viên do chính Cao Biền tự tay chọn đất truớc đây. Người làng vẫn tin đình làng được xây trên thế đât “cổ con rồng”. Theo lời kể của ông Vũ Công Điền, thủ từ đình Nam Trì, sở dĩ đình làng Nam Trì do Cao Biền chọn đất gắn liền với câu chuyện cách đây hơn một thiên niên kỷ trước. Vào giữa thế kỷ IX, Cao Biền từng đi qua vùng đất làng Nam Trì ngày nay, bằng nhãn quan của một nhà địa lý, Cao Biền cho rằng làng này có thế đất “phượng hoàng hàm thư”. Đây là thế đất rất quý, với thế đất này thì Nam Trì về sau sẽ sinh ra bao bậc tài danh lập nên nhiều công trạng lớn. Chính thế đất đẹp hiếm có của Nam Trì đã khiến Cao Biền bỏ công giúp làng chọn đất xây đình với mong muốn cho Nam Trì mau chóng có người hiển đạt, vinh quy!?
Tương truyền, nơi Cao Biền chọn đất để xây đình là nơi có “hoàng long địa mạch, song long tứ nhãn, nhị nhãn hiện nhị nhãn ẩn, thuỷ nhiễu chu viên”. Nhưng theo tìm hiểu của chúng tôi, có một điều lạ, kể từ khi Cao Biền chọn đất, làm đình cho đến thế kỷ XVI thì người làng Nam Trì chẳng một ai đạt được công danh như lời ông Cao Biền truyền lại. Cái thế phong thủy “phượng hoàng ngậm thư” của làng coi như chẳng phát huy được tác dụng nào. Chẳng hiểu vì lý do gì từ ngày Cao Biền chọn đất xây đình cả làng không có nổi một người đậu đạt. Chính điều này khiến cả làng hoài nghi. Đến thế kỷ XVI, nghe danh Nam Tri có thế đất quý, thành địa lý Tả Ao đến làng. Chính ông đã khuyên dân làng dời đình đi nơi khác, không để ở vùng đất Cao Biền lấy trước đây.
Ông Điền kể lại rằng, người Nam Trì chúng tôi đến nay vẫn truyền tụng nhau rằng, Tả Ao tiên sinh từng sinh sống ở làng 38 năm. Vì quý cái thế đất của làng Nam Trì nên ông đã ở mãi nơi đây đến lúc về già. Lý do mà ông Tả Ao ở lại lâu như vậy đến nay vẫn còn là một điều bí ẩn. Lý do vì sao thầy địa lý Tả Ao quyết định dời đình làng sang một vị trí mới, nam ở phía Tây của làng đến nay không ai trả lời được. Đình làng nơi Tả Ao chọn đất đã bị bom cày nát trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Hiện nay, vị trí đất đó đã bị nguời làng tự ý xây nhà lên ở. Cũng từ khi Tả Ao chuyển đình sang chỗ mới thì làng Nam Trì mới bắt đầu có người đậu đạt. Tuy nhiên cũng chỉ vỏn vẹn đuợc một ông tiến sỹ, một ông quận công. Sự thực 1.000 năm qua cho thấy thế đất “phụng hoàng ngậm thư” của Nam Trì chưa thể phát đường công danh tài lộc như hai ông thầy địa lý Cao Biền, Tả Ao phán trước đây.
Cao Biền (821- 887), người U Châu (Bắc Kinh, Trung Quốc), nhờ có công đánh bại quân Nam Chiếu xâm chiếm phương Nam nên năm 868, Cao Biền được vua Đường cho trấn giữ Giao Chỉ giữ chức Tĩnh Hải tiết độ sứ và giữ chức này đến năm 875. Dân gian cho rằng, Cao Biền là người có thuật phong thuỷ kỳ lạ và mưu đồ xấu. Nhiều câu chuyện kể lại, khi Cao Biền giữ chức Tĩnh Hải tiết độ sứ, ông thường “cưỡi diều” đi khắp nơi, hễ đâu có thế phong thuỷ đẹp thì yểm, phá long mạch để không cho những đất đó sinh thành ra các bậc tài danh. Ngay nay, ở phường Đình Bảng, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh hay đất Đường Lâm (Sơn Tây), Ba vì, Hà Nội vẫn truyền tụng những câu chuyện tương tự. Còn Tả Ao, có thông tin, ông sinh vào thế kỷ XVI, ở làng Tả Ao, phủ Đức Quang, trấn Nghệ An, nay là huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh, ông là thầy địa lý, phong thuỷ nổi tiếng ở Việt Nam.
Một số cuốn sách Hán Nôm cổ truyền bá thuật phong thủy của Việt Nam được cho rằng, ông là tác giả. Ngày nay, ở Việt Nam vẫn còn nhiều truyền thuyết, giai thoại ghi lại, truyền miệng trong dân gian như việc Tả Ao phá trấn yểm của Cao Biền trên núi Tản Viên (Hà Nội), núi Hàm Rồng (Thanh Hóa). Ngoài ra, còn có các truyền thuyết, giai thoại Tả Ao tìm nơi đất tốt để đặt đình chùa, đền miếu, mồ mả, nhà cửa. Làng này có tục nọ, nghề kia là do Tả Ao chọn đất, hướng đình; họ này phát danh khoa bảng, họ kia phát công hầu, khanh tướng là do Tả Ao tìm long mạch, huyệt đạo đặt mồ. Việc hai ông thầy địa lý được cho là có tài năng này cùng chọn đất xây đình cho làng Nam Trì theo cách khác nhau nhưng chẳng hiểu sao làng này mãi không phất lên được?
Người gần chẳng được người xa muốn về
Cái danh làng Nam Trì thờ Cao Biền, Tả Ao – hai bậc thầy về phong thủy nên đã không ứ người muốn bỏ tiền công đức phục dựng lại đình để mong hưởng lộc. Chính vì điều này mà đình làng Nam Trì được xây dựng lại khang trang như ngày nay. Từ khi đình Nam Trì được xây dựng lại thì cái cảnh người tứ xứ về đây thắp hương hành lễ xin lộc vào ngày Rằm, mồng Một ngày một đông. Vào những ngày này, trên đường làng Nam Trì chật cứng, ô tô, xe mày. Nhiều người có chức quyền, cứ thế đua nhau kéo về thành hàng dài. Người ở xa thì đổ về xin lộc như vậy, tuy nhiên người ở gần thì chả thấy lộc đâu. Theo bà Vũ Thị Duyên, Trưởng thôn Nam Trì cho biết, cả làng Nam Trì có hơn 400 hộ dân, chủ yếu làm nông nghiệp, thợ xây, phụ hồ. Người đi học còn ít chứ chưa nói đến công danh khoa cử.
Lý do Tả Ao lưu lại sống đến 38 năm ở làng Nam Trì hiện vẫn là một ẩn số. Bởi theo tương truyền, thì thầy địa lý Tả Ao rất thích chu du, đi đây đó xem đất cát. Người làng Nam Trì thì cho rằng, do thế đất “phượng hoàng hàm thư” (chim phượng hoàng ngậm thư) là nơi có tam giang giao hội, thuỷ tụ khê lưu nên Tả Ao muốn ở lại đây lâu chờ thời chăng. Trong đình làng hiện nay vẫn còn lưu lại câu đối của vị Thánh địa lý Tả Ao nói về phong thủy của làng như sau: “Tây lộ khê lưu kim tại hậu – Đông giang thuỷ tụ mộc cư tiền” – Nghĩa là phía Tây của làng có dòng nước chảy, phía sau của làng là hướng Tây Bắc (hướng Tây Bắc hành kim) – phía Đông có sông nước, làng nhìn vê hướng Đông Nam (hướng Đông Nam hành mộc), đó là thế đất tốt. Nhưng chẳng hiểu sao đã 1.000 năm trôi qua kể từ khi Cao Biên chọn đất xây đình thì đến giờ làng này vẫn chưa phất lên được.
Cao Biền Tấu Thư Địa Lý Kiểu Tự
Cao Biền Tấu Thư Địa Lý Kiểu TựTác giả: Cao Biền (Thời Đường)NXB Sài Gòn 1984 (Giáp Tý)430 Trang
Giá: 550.000 vnđ + ship
“Cao Biền tấu thư địa lý kiều tự” là tập tài liệu nói về các kiểu đất kết bên Việt Nam mà Cao Biền trình về vua Đường Trung Tông. Những đất nói trong tập này có ngàn kiểu mà Cao Biền mới yểm được một số ít đất Đế vương quí địa còn cả ngàn đất Công hầu, Khanh tướng vẫn còn nguyên vẹn. Các cụ xưa giữ sách này làm gia bảo và theo nó tìm cho ra đất kết dành cho họ hàng mình dùng khi cần đến.Download
Cao Biền Tấu Thư Địa Lý Kiểu Tự – Cao Biền.PDF Xuất xứ sách
Xưa kia về đời Vua Đường Trung Tông bên Tàu có Cao Biền được phong là “An nam tiết độ sứ” sang đô hộ nước ta, là người rất giỏi địa lý được vua Tàu uỷ cho sứ mạng trình về vua biết các kiểu đất bên Việt nam và yểm phá các đất kết lớn nào khả dĩ có ảnh hưởng cho Trung Quốc.
Sau khi nhận chức và khảo sát địa lý bên Việt nam, Cao Biền thấy nước ta có nhiều đất phát rất lớn có thể tạo nên những bậc tài giái mà sự nghiệp khả dị ảnh hưởng cho Trung Quốc trong vấn đề Nam tiến biên soạn tập “Cao Biền tấu thư địa lý kiều tự” này trình về vua Đường đồng thời dùng phép yểm phá một số Long mạch có đất kết lớn. Truyền thuyết có nói trước khi yểm một kiểu đất nào Cao Biền thường phô đồng để kều các vị thần cai quản khu vực đó nhập vào đồng Nam, đồng Nữ rồi trừ đi sau đó mới ra yểm đất. Cũng theo truyền thuyết Cao Biền có yểm được một số ít đất lớn song cũng bị thất bại trước nhiều vị thần linh trong đó đáng kể nhất là “Tản viên sơn Thần” và “Tô lịch giang Thần” (núi Tản viên thuộc huyện Bất Bạt tỉnh Sơn tây và sông Tô lịch chảy qua Hà nội ở Ô Cầu Giấy (gần làng Láng). Đền Bạch Mã ở Hàng Lược Hà Nội là đền thờ thần Tô Lịch.
Trải qua Đường Tống đến đời nhà Minh có Trương Phô, Mộc Thạch và Hoàng Phúc là ba danh tướng Trung Hoa được Minh đế cho kéo quân sang Việt nam bề ngoài với danh nghĩa phò hậu Trần diệt Hồ nhưng bên trong có mang một kế hoạch diệt chủng người Việt và đổi nước ta thành quận huyện của Trung Quốc. Kế hoạch này tỉ mỉ và thâm độc hơn những kế hoạch tương tự mà người Hán đã làm từ xưa đến giờ.Trong số 3 danh tướng Trung Hoa này thì Hoàng Phúc là người rất giỏi địa lý có mang theo “Cao Biền tấu thư địa lý kiều tự” sang duyệt xét lại và yểm nốt những đất kết lớn nào còn sót lại cho Việt nam không thể còn có những thế hệ thịnh trị sản sinh ra được những nhân tài xuất chúng như Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo đã làm khó khăn cho Trung Quốc như trong thời đại Lý và Trần vừa qua. May thay Lê Lợi và Nguyễn Trãi đã khôn khéo và kiên trì lãnh đạo cuộc kháng Minh đến thành công sau 10 năm gian khổ. Khi bắt sống được Hoàng Phúc ta thu được toàn bộ tài liệu của kế hoạch nêu trên trong đó có cả tập “Cao Biền tấu thư địa lý kiều tự”.
Bây giờ tập sách này trở nên một tài liệu vô cùng quý giá cho ta trên nhiều phương diện: Sử liệu, chính trị, địa lý.
1. Trên phương diện sử liệu nó là một sử liệu cổ xưa có giá trị. Tài liệu này soạn thảo từ ngàn năm trước.
2. Trên phương diện chính trị: Nó là tài liệu chứng minh một cách cụ thể chính sách người Hán và tham vọng của họ với dân tộc Việt nam.
3. Trên phương diện địa lý: Nó là một áng văn tuyệt tác về phép mô tả các kiểu đất kết mà các cụ xưa kia thường dùng để soi sáng cho việc học “Tầm Long”. Chúng tôi đã thấy và có nghe nói nhiều đến các cụ địa lý, hơn nữa cả bọn thanh niên để cả chôc năm liên tiếp với chiếc ô (dù) và tay nải đi hết làng nọ sang làng kia, tỉnh này sang tỉnh khác nghiên cứu thực hành “Tầm Long mạch” qua sự chỉ dẫn địa danh và thế đất mô tả trong “Cao Biền địa lý tấu thư kiều tự”. Quyền địa đạo diễn ca của cụ TẢ AO mà chúng tôi biên nơi đây chú trọng đến việc tầm Long tróc mạch nên chúng tôi xin cống hiến quý bạn một phần đầu quyển “Cao Biền tấu thư địa lý kiều tự”.
Cao Biền đề cập đến 632 huyệt chính và 1517 huyệt bàng của các tỉnh.
Hà Đông: 81 chính; 246 bàng
Sơn Tây: 36 chính; 85 bàng
Vĩnh Yên, Phúc Yên, Phú Thọ: 65 chính; 155 bàng
Hải Dương, Hưng Yên, Kiến An: 183 chính; 483 bàng
Gia Lâm, Bắc Ninh, Đáp Cầu, Bắc Giang, Lạng Sơn: 134 chính; 223 bàng
Hà Nam, Nam Định, Thái Bình, Ninh Bình: 133 chính; 325 bàng
Cộng: 632 chính; 1517 bàng
Sách này có ghi chép tuần tự các huyệt của từng tỉnh, ghi ra nó tọa lạc tại huyện xã, ấp nào nêu các cụ ngày xưa theo đó học “Tầm Long” tróc mạch dễ dàng.
Phần đầu đề cập đến tỉnh Hà Đông trong đó có 81 huyệt chính và 246 huyệt bàng.
– Huyện Thanh Oai: 9 chính; 26 bàng
– Chương Đức (Chương Mỹ và Mỹ Đức): 11 chính; 34 bàng
– Sơn Minh (ứng Hoà): 9 chính; 26 bàng
– Hoài An: 6 chính; 19 bàng
– Thanh Trì: 11 chính; 41 bàng
– Thường Tín: 11 chính; 41 bàng
– Phú Xuyên: 7 chính; 20 bàng
– Từ Liêm: 11 chính; 34 bàng
– Đan Phượng; 5 chính; 13 bàng
Cộng: 81 chính; 246 bàng
Ở những tay Long Hổ Án Sa.v..v.. của những huyệt chính thường có những huyệt kết khác nữa gọi là kết bàng. Nơi nào có ghi thêm C/B2 hay C/B3 hoặc C/B4.. ở cạnh địa danh có nghĩa là đây là huyện chính và kiểu đất này còn có 2 hay 3 hay 4 huyệt kết bàng nữa (sách chỉ nói đến huyện chính).
Truyện Sông Tô Lịch Và Cao Biền
Cao Biền được sinh ra năm 821, ở thành U Châu, nay là Bắc kinh, là cháu nội của Cao Sùng Văn, một danh tướng thời Đường Hiến Tông. Cha của Cao Biền là Cao Thừa Minh, là Quan Ngu Hậu trong triều đình. Từ nhỏ Cao Biền tính cách nhanh nhẹn, thông minh, cho nên hay la cà học hỏi các vị Thầy, và các Cao Tăng trong triều.
Biến Dịch – Bất Dịch- Giản Dịch. Nghĩa là biến hoá, cố định, và đơn giản nó.Cao Biền lại được truyền dạy về Bát Quái. Trong đó có biến quẻ để Biến Dịch, là biến Hung thành Cát, biến Cát thành Hung. Bất Dịch để cố định chiếm giữ, Giản Dịch để làm đơn giản giảm bớt những phức tạp…Chính điều này làm cho Cao Biền trở nên lợi hại trong con đường sự nghiệp.
Thời Đường Ý Tông có một người Đảng Hạng chống lại Vua. Nhiều tướng tài đánh không lại. Cao Biền đã dùng mưu đánh thắng nên tiếng tăm lẫy lừng.
Năm 863 quân Nam Chiếu- Đại Lễ cướp được A Nam từ tay nhà Đường, nên Ý Tông tức giận bèn trông cậy Cao Biền lấy lại A Nam. Mùa thu 865 Cao Biền mang hơn hai vạn quân xuống trị tội quân Nam Chiếu.Mùa hè năm 866 Cao Biền vây thành Giao Chỉ và đánh thắng. Giết chết Đoàn Tù Thiên và Chu Đạo Cổ, lấy lại được thành. Đường Ý Tông phong cho chức Kiểm Hiệu Công Bộ Thượng Thư. Trấn thủ A Nam. Sau đổi A Nam Đô Hộ Phủ là Tĩnh Hải Quân phong cho Biền làm Tiết Độ Sứ.
Do vậy Biền đã cho xây thành để phòng thủ chắc chắn. chu vi 3000 bộ, hơn 40 vạn gian phòng ốc, từ đó quân Đại Lễ không còn xâm phạm. Sau đó tiến hành một dự án lớn để loại bỏ những trở ngại tự nhiên trên thủy lộ giữa Tĩnh Hải quân và Lĩnh Nam Đông đạo, khó khăn về giao thông của Giao Chỉ được loại bỏ.
Trong quá trình xây dựng đoạn đê La Thành (nay là từ đường Hoàng Quốc Việt đến đường Cầu Giấy) hay bị lở sụt .Cao Biền tính đa nghi lại hiểu Kinh Dịch, Bát Quái, nên đã dò la xem xét nguyên nhân. Hắn dạo quanh một vòng từ Tâm Thành đến vùng sụt lở, ra đến đoạn Sông Tô Lịch, lấy phương vị Bát Quái. Hắn giật mình khi đối chiếu từ Tâm Thành đến chỗ sụt lở chiếu thẳng lên đến Núi Tản Ba vì!
Trong bụng Hắn nghĩ rằng Đức Thánh Tản và Long Mạch Ba Vì là Nguyên nhân!
Có một Long Mạch từ núi Ba Vì chảy về qua Tô Lịch, Đến Nội Thành rồi nối vào đoạn phân lưu của Sông Hồng. (Dựa theo bản đồ thời Hồng Đức thì phần lớn xung quanh Kinh Thành khi ấy là nước, một phân lưu sông Hồng chảy qua vị trí của các phố ngày nay như Hàng Đào, Hai Bà Trưng, Lý Thường Kiệt, Hàng Chuối. Tiếp đó đổ ra nhánh chính của sông Hồng Nơi rộng nhất phân lưu này hình thành nên hồ Hoàn Kiếm hiện nay.) rồi từ đó lan toả tạo nên sinh khí rộng lớn cho toàn Tĩnh Hải Quân. Nếu để vậy, chẳng những xây thành khó, mà đất này sau có nhiều Nhân Tài kiệt xuất sẽ nổi lên xưng Vương ngang ngửa với Đường Triều Bắc phương!
Thế là Cao Biền nghĩ cách Trấn Yểm, vừa chống sụt lở đất lại trừ hoạ cho Đường Triều. Bản tính của Cao Biền trước mỗi trận đánh Hắn thường cúng lễ Thiên Địa và múa may quay cuồng, làm cho quân lính đối phương lo sợ! lại thêm phấn kích tinh thần của tướng sỹ nên Biền chỉ huy chiến trận thường thắng lớn lại càng tạo Uy Danh Huyền Bí. Một mặt việc biến quẻ theo Kinh Dịch là có căn cứ khoa học và thực tiễn đã được chứng minh nhiều đời.Cao Biền liền dùng Phương pháp Trấn trong ( Lục Quyết Chấn ) đó là :
Độc Chấn – Tam Chấn – Tứ Chấn – Ngũ Chấn – Bát Chấn – Cửu Chấn. Và dùng Tứ Yểm chấn là: Nhân Chấn – Kim Chấn – Thạch Chấn – Mộc Chấn.
Để thực hiện âm mưu đó, Biền đã đi lấy cọc bằng các loại Gỗ Sưa, gỗ Vàng Tâm, gỗ Ngọc Am và các loại như Vàng, Bạc, Đá trắng, Đá Xanh, và Hắn đã dùng cả Nhân Chấn là Chôn sống Người để thực hiện mưu đồ đó.Sau khi chuẩn bị xong Biền đã cho người đào Sông Tô Lịch và Chấn Yểm dưới lòng sông. Ngoài ra Biền còn chôn sống Người ở dọc hai bên bờ để làm Âm Binh.
Hắn chôn người theo đúng nghĩa “Thổ Táng” nghĩa là làm Quan Tài Đất, bên trong là men rượu và lá Xoan, quả Xoan. Rồi cho Người nằm vào đó chôn sống ở trạng thái không có quần áo! Sau trăm ngày men rượu và lá Xoan đủ nóng sẽ huỷ toàn bộ Thịt, Xương của người chết lúc này gọi là ” Nhân Hoàn Thổ ” người đã thành Đất thì các Thầy Pháp cao tay như Từ Đạo Hạnh cũng khó lòng giải yểm!
Biền còn lấy một trăm hạt đỗ có thể là Đậu Ván Ma và một trăm nén nhang nhờ một bà cụ bán hàng nước ở đó mỗi ngày gieo một hạt đậu, thắp một nét nhang để nuôi Âm Binh!
Theo truyền thuyết: Bà cụ nằm mơ thấy Thánh Tản về nói là để giải bớt tác dụng của bùa yểm con hãy gieo cả trăm hạt đỗ rồi đốt luôn trăm nén nhang một lần như thế là con đã giúp nước. Bà cụ làm theo nên đỗ chết gần hết chỉ còn vài hạt nảy mầm ngoằn ngoèo như con Giun! Bà cụ sợ bị giết đã trốn mất. Cao Biền thấy vậy liền lập sớ cúng ngay trên bờ sông và cho lập Đền gọi là Đền Đôi để cúng cho bọn Âm Binh của hắn. Hắn cho một số gia đình đến làm nhà ở quanh và cúng lễ nên lâu dần thành tục lệ! Ngày nay ở Đền Đôi bà con ta vẫn thắp nhang để cúng Long Thần Tô Lịch thực chất là mắc mưu Cao Biền !Sau khi Hắn không thực hiện được âm mưu nuôi Âm Binh, Biền liền về lập Đạo Bùa lên dán vào Đỉnh núi Tản để trả thù Đức Thánh Tản ! Nhưng vừa dán xong thì Sét đánh tan tành Đạo Bùa của Hắn. Biền về ốm lăn lóc chữa mãi không khỏi ! Nên hắn cho người làm hàng ngàn tháp đất nung để chôn trong Thành và những nơi lân cận, ý là muốn giữ mạng sống cho Hắn !Hai năm sau năm 868 Cao Biền được Vua nhà Đường triệu hồi về Trường An giữ chức Hữu Kim Ngô Đại Tướng Quân.
Từ đó Cao Biền không trở lại Việt Nam nữa Hắn lập nhiều công trạng được Vua Đường tin tưởng nhưng sau có ý kiêu ngạo nên bị giáng chức làm Thị Trung một chức Quan nhỏ. Biền chống lại lệnh Vua câu kết với Lã Dụng Chi, sau lại câu kết với Tần Ngạn và Tất Sư Đạc do bất hoà Lã Dụng chi Tiến Đánh Dương Châu, Tần Ngạn, Tất Sư Đạc Thua Trận bèn nghi Cao Biền trấn yểm ngầm giúp Lã Dụng Chi nên đã sai Chiến tướng Lưu Khuông Thì chém chết Cao Biền và thuộc hạ chôn vào một hố!Kết cục thì Cao Biền chết thảm. Việc làm của Hắn ở Việt Nam gây đồn đoán hàng ngàn năm. Nghi ngờ trong xã hội, làm ảnh hưởng tinh thần Dân Tộc.
CAO BIỀN VÀ SÔNG TÔ LỊCH HÀ NỘI
Cao Biền là con trai Cao Thừa Minh hắn được sinh ra tại U Châu nay là Bắc Kinh Trung Quốc vào ngày “chủ nhật 8-9”? năm Tân Sửu tức ngày 3-10 năm 821. Thuộc cung Ly mệnh Thổ.Từ nhỏ Hắn đã rất ham học và thường tiếp xúc với các bậc hiền triết. Lớn lên hắn làm Quan Ngu Hậu trong thần sách quân.Năm 866 Đoàn Tù Thiên và Chu Hạo Cổ có ý không tuân theo Đường Ý Tông nhà Đường lệnh cho Cao Biền sang giết chết hai người này và phong cho chức Tiết Độ sứ Tĩnh Hải Quân cai quản Việt Nam.Ngay sau khi quản lý Tĩnh Hải Quân, hắn cho xây thành Đại La, nhưng cứ xây đến đoạn sông Tô Lịch là sụt lở và đổ tường thành, do vậy hắn đã nghĩ cách lập đàn làm phép “Trấn Yểm”.Hắn là mệnh Thổ cung Ly nên buổi sáng hắn thường xuất hành đi về hướng đông thuộc cung Chấn để luyện pháp khí thu nạp sinh khí.
Chuyện kể rằng một hôm ra đến cửa đông nhìn lên trời hắn thấy một người cưỡi Rồng Đỏ bay lượn mấy vòng nên trong lòng hậm hực về định làm đạo bùa Trấn Yểm!Nửa đêm hôm đó Thần Long Đỗ hiện về trong mơ hỏi chuyện hắn, hắn rất nể phục mà làm đền thờ Long Đỗ nay là đền Bạch Mã.
Do hắn khôn khéo lập đền thờ Thần Long Đỗ nên khi hắn làm đạo bùa trấn ở dòng sông Tô Lịch đã khá thuận lợi.Việc đầu tiên hắn cho ngăn sông và nắn dòng chảy đoạn tây thành nay là đường Nguyễn Đình Hoàn, và bên kia là đường Bưởi Hà Nội. Hắn lệnh cho quân sỹ đào đất lên tạo thành một cái hố sâu 7m và rộng mỗi chiều ước chừng 18 m. Sau đó Hắn đã viết chữ bùa “ THU BÓNG PHÁP” và làm các pháp khí trong Kỳ Môn Thần Phù để thu hồn vong linh của các bậc đế vương và các vị thánh thần của ta! Hắn đã vẽ bùa nhốt các linh hồn đó vào một cái lọ gốm. Còn các âm binh hộ giá hắn thu hồn vào những chiếc đinh đem đóng vào cọc sau đó dùng chính những chiếc cọ này làm bát quái trấn yểm đóng xuống lòng sông tô lịch! Hắn dùng biến quái ngụ ý là cắt đứt Sinh Khí của Long Mạch từ Tản Viên Sơn nay là núi Ba Vì vào một lá bùa rồi đạy lên nắp lọ! Ý hắn muốn nước Nam ta sẽ không sinh ra Đế Vương. Mà nếu có Đế Vương giỏi cũng sẽ bị tuyệt tự hoặc chết sớm!
Việc đầu tiên hắn đã chôn chặt cái hồ lô thu bóng pháp xuống dòng sông Tô Lịch! Tiếp theo hắn lấy tám cây cọc chôn xuống theo hình bát quái , xung quanh khu vực này hắn đã dùng tới 136 cọc nhỏ biến quẻ trấn yểm!Sau khi Trấn bằng trận đồ xong. Hắn còn bắt nhiều người chôn sống dọc theo hai bên bờ sông để làm âm binh. Hắn chôn theo các vật dụng sinh hoạt để cho âm binh sử dụng! Bao gồm bát đĩa xoong nồi, đao, liềm, kim, tiền và các con vật nuôi giống như một đội quân ở trên trần gian.
Hắn đã sử dụng một chiến tướng tự nguyện hy sinh để lãnh đạo nhóm âm binh này tất cả các âm binh và chiến tướng kia hắn đã chôn theo hình thức “Hoàn Thổ Táng” nghĩa là trả về đất.Hắn làm quan tài bằng đất, rồi cho xác người vào trong quan tài. Tất cả những xác người để mặc quần áo được làm từ lá cây, rồi hắn cho đổ chất lên men lên thi thể, tiếp tục cho lá Xoan tươi vào rồi đạy nắp đem chôn, chỉ sau 100 ngày những thi thể kia sẽ bị tiêu huỷ hoàn toàn rất nhanh do sức nóng của men và lá cây. Sau một năm thì toàn bộ thể xác của họ bị hoà vào đất và không còn xương cốt, sau ba năm nếu ta đào lên cũng khó phát hiện vị trí quan tài nằm ở đâu vì lúc này toàn bộ đã hoàn thổ!
Trong số đó Viên Chiến Tướng và 36 lính được chôn ở trên đoạn đường bưởi chiếu thẳng từ Hoàng Thành Thăng Long ra hướng tây, với mục đích Trấn luồng sinh khí từ Tản Viên Sơn vào thành!Sau khi hoàn thiện các thủ tục hắn ra đường bờ sông mang một trăm hạt đỗ “Đậu Ván Ma„ và một trăm nén nhang nhờ một bà cụ bán hàng nước và dặn rằng. ” mỗi ngày bà gieo một hạt đỗ và thắp một nén nhang giúp tôi tôi sẽ cho bà tiền vàng” Bà cụ không hiểu đầu đuôi như thế nào nên đã làm theo hắn hàng ngày bà làm như vậy rồi đến đêm thứ ba Bà cụ nằm mơ thấy một người mặt mũi phương phi tay cầm gậy trúc đến gặp Bà và nói:
Con có biết con đang làm gì ko?Bà cụ ngơ ngác– dạ thưa không.Vị thánh kia lại nói :– Con làm như vậy là con đã giúp nuôi âm binh cho Cao Biền, điều này sẽ gây nguy hại cho tương lai của đất nước.Bà cụ sợ hãi hỏi vị thánh :– Vậy con phải làm gì bây giờ ?Vị thánh nghiêm sắc mặt nói :– Con hãy mang số hạt đỗ còn lại , đào một cái hố rồi đổ hết xuống đó. Sau đó con đốt tất cả số nhang còn lại cắm lên bên trên.Nói xong vị thánh biến mất.Tỉnh dậy bà cụ hoảng sợ đã làm theo đúng lời của thánh dạy rồi thu xếp đồ đạc và trốn đi đâu mất tích. Sau này không ai biết bà đi đâu nữa.
Ba ngày sau, Cao Biền cảm thấy sốt ruột, hắn đã đi ra bờ sông thì không còn thấy bà cụ nữa. Nhìn ra nơi gieo đỗ thì thấy những hạt đỗ mọc lên cong queo, ngoặt ngoẹo. Nên dân ta có câu “lẩy bẩy như Cao Biền dậy non”.Hắn uất ức vô cùng bèn sai quân lính đi truy tìm bà cụ nhưng không tìm được. Hắn quay về , vào phòng mật thất ngồi thiền định, suy ngẫm và hiểu ra rằng chỉ có thánh Tản Viên là người đã hướng dẫn cho bà cụ hoá giải phép trấn yểm của hắn.Hắn liền lập đàn thờ cúng bảy ngày bảy đêm, sau đó vẽ bùa định thu hồn Thánh Tản rồi mang lên đỉnh núi Ba Vì dán vào đó để trả thù đức thánh Tản Viên. Khi hắn vừa dán xong lá bùa thì bỗng dưng trời nổi một cơn giống tố và năm tia sét đánh xuống làm tan lá bùa của Cao Biền. Đức Thánh Tản đã dùng thuật “Ngũ Lôi Công” của Mẫu Cửu Trùng Thiên Cửu Thiên Huyền Nữ để cản cáo Cao Biền, do vậy Cao Biền hoảng sợ vội quỳ xuống xin tha mạng.
Hắn sợ nhưng hắn cũng vẫn uất ức bèn về lập đàn cúng bái và chỗ đó ngày nay là các miếu thờ bên ven sông hắn nói là thờ Thập Bát Long Thần nhưng thực chất là nuôi âm binh cho hắn.Sau khi Lý Công Uẩn dời đô về Thăng Long ông đã cho xây dựng đền đôi để trấn lại pháp khí của Cao Biền nhưng do pháp khí của Y rất mạnh hắn lại dùng các linh vật của Thượng Đế để trấn giữ nên các Vị Thần tướng của ta vẫn chưa hoá giải được bùa của Cao Biền.
Năm 868 Cao Biền quay về Trường An Trung Quốc, trải qua nhiều chức vụ quan trọng và lập nhiều chiến công. Trước mỗi trận đánh, Cao Biền thường lập đàn cúng bái và múa may quay cuồng làm cho quân lính đối phương hoảng sợ. Nhưng sau này có một người tên là Hoàng Sào làm nghề buôn muối giàu có đã nổi lên chống lại triều đình. Vua Đường sai Cao Biền dẹp loạn nhưng Hắn không muốn gây chiến với Hoàng Sào vì Hoàng Sào lại tốt với dân. Vì do không làm vừa lòng triều đình nên đã bị Vua Đường hạ chức quan chỉ giữ chức Lang Môn nhỏ bé!
Cao biền tự ái đã kết hợp với Lã Dụng Chi để chống lại triều đình, do trong nội bộ giữa Cao Biền và Lã Dụng Chi cũng bất hoà. Cao Biền lại câu kết với Sư Đạc và Tần Ngạn đánh nhau với Lã Dụng Chi.
Đánh nhau mãi không phân thắng bại cuối cùng Sư Đạc và Tần Ngạn đã nghi ngờ Cao Biền làm Bùa chú ngầm giúp Lã Dụng Chi nên đã sai Lưu Khuông Thì đưa quân đến giết chết Cao Biền và các thuộc hạ rồi đào một cái hố to chôn tất cả xuống đó!Trải qua hơn ngàn năm cùng bao đời Vua Chúa Việt Nam nhưng đến nay việc Cao Biền Trấn Yểm vẫn là một ẩn số.Chẳng lẽ chúng ta lại cứ để mãi vậy sao? Chắc chắn là có phương pháp hoá giải vấn đề này. Vậy Nhà Nước có tin hay không? Và cách giải quyết nó như thế nào? Vào tháng 7 âm lịch hàng năm các vị Thần Tướng trên trời xuống thu quân và đây là cơ hội để ta hoá giải.
Ta dùng Kỳ Môn Thần Phù của Cửu Thiên Huyền Nữ cùng sự trợ giúp của đức thánh Tản Viên chắc chắn sẽ phá tan đạo bùa này.Cho nên các vị Vua trước đời Lý Công Uẩn không còn linh thiêng bởi đạo bùa của Cao Biền đã khống chế. Ở nước ta chỉ còn các vị VuaĐinh, Vua Lý, Vua Trần trở lại là linh thiêng vì do không bị ảnh hưởng bởi đạo bùa của Cao Biền.Vào một ngày không xa khi bình minh vừa chiếu sáng ta sẽ thấy trong Hoàng Thành Thăng Long, hay cố đô Phong Châu sẽ hiện lên trong lung linh huyền ảo dáng hình của các Vua Hùng của các đời Vua ngày ấy hiện lên trong những ánh hào quang sắc màu. Và khi ấy non sông đất nước ta được nở hoa con cháu chen hàng dâng hương đất tổ và thánh nhân xuất hiện xua đi mọi sự giả dối, đê hèn và truỵ lạc trả lại cho non sông thái bình thịnh trị quốc thái dân an ngàn năm văn hiến.
Thuật Phong Thủy Của Cao Biền Trấn Yểm Sông Tô Lịch (1)
BÀN VỀ CAO BIỀN
Vào ngày 27/9/2001, đội thi công số 12 -Thuộc Công ty xây dựng VIC, trong khi nạo vét sông Tô Lịch, thuộc địa phận làng An Phú – P. Nghĩa Đô – Q. Cầu Giấy – Hà Nội đã phát hiện được di vật cổ rất lạ và huyền bí. Đó là 7 cây gỗ được chôn đứng dưới lòng sông, tạo thành một đa giác đều, tại đó có các bộ hài cốt bị đóng đinh bả vai, táng giữa các cọc gỗ đó. Ngoài ra còn phát hiện được tấm gỗ Vàng tâm có hình Bát quái, một số đồ Gốm, xương Voi, Ngựa, dao, tiền đồng.
Sau khi đã rút những cọc gỗ đó lên, lấy các bộ hài cốt đem lên Bát Bạt -Hà tây (là nghĩa trang chôn cất chung của TP. Hà nội), thấy có rất nhiều hiện tượng kỳ lạ xẩy ra. Nào là các việc chuẩn bị tiến hành thi công bị rối tung lên, máy xúc Komatsu tự nhiên lao xuống sông. Nào là một số người đang làm việc tự nhiên ngã lăn ra đất, chân tay co rúm, cứng đờ, lưỡi thè ra ngoài và trở nên hoàn toàn mất tư thức trong nhiều gi;. Địa tầng của cả khu vực thi công tự nhiên biến đổi, không giống như khảo sát ban đầu.; Thử đưa la bàn vào khu vực đó thấy kim la bàn quay tít.
Một năm sau sự việc trên,có hàng loạt sự kiện ngẫu nhiên xẩy ra, gây kinh hoàng cho toàn đội xây dựng số 12, là đội đã trực tiếp thi công khu vực trên. Bản thân, gia đình, anh em của những người công nhân trực tiếp ngụp lặn vớt hài cốt, nhổ cọc đóng dưới lòng sông liên tục bị các tai nạn thảm khốc như chết, bệnh tật, tai nạn. Sự việc lên đến đỉnh cao khi có tới 43 người thợ bỏ không dám tiếp tục làm việc tại công trường nữa. Trong số đó nhiều người không nói rõ lý do, cũng không đòi hỏi vật chất mà đáng ra họ được hưởng.
Các nhà khoa học đã có những đánh giá sơ bộ, song cho đến nay vẫn chưa có kết luận nào khả dĩ có thể lý giải và khắc phục các sự việc trên. Giáo sư Trần Quốc Vượng có kết luận như sau : ” Trước đây, cổng Hoàng thành ngoài lính còn có Thần chấn giữ 4 cửa (Thăng Long Tứ trấn) và có yểm bùa hay còn làm lễ Hiến Sinh. Như vậy đây là cổng thành phía Tây của La thành. Thông qua tính tương đối thống nhất giữa niên đại của Tiền và đa số đồ gốm cho thấy niên đại của địa điểm này trong khoảng thế kỷ 11 cho đến 14, thuộc vào thời Lý -Trần Việt Nam hay thời Tống của Trung Quốc. sim phong thủy
Sự trùng hợp ngẫu nhiên giữa hiện tượng sông Tô Lịch bị lở do đổi dòng và mắt nhà Vua bị đau, đã tạo ra một lễ trấn yểm, trong đó có những bộ xương người cùng những hiện vật khác chăng. (Ở đây GS Trần Quốc Vượng muốn nhắc đến sự tích Ông Dầu bà Dầu trong chuyện cổ tích Việt nam – Người viết). Đó là một phần của những gì đã đăng tải trên tờ báo.
Gần đây, một người bạn của tác giả có cho biết : Đài truyền hình có phát tin người ta đã chuẩn bị khôi phục lại hiên trạng di vật như lúc ban đầu.
Người viết bài này lại có ý kiến khác hẳn : Theo thiển ý của người viết, đây là một hiện tượng trấn yểm nhằm cắt và bế Long Mạch, chận đường của Khí. Ai đã chấn yểm vị trí này và mục đích sự trấn yểm này để làm gì ?. Theo thiển ý của người viết : Đây là tác phẩm của Cao Biền, Tiết độ sứ của TQ vào thế kỷ 8 – Tức là trước thời nhà Lý khoảng 200 năm.
Người viết xin được chứng minh như sau : Trước hết nói về ý kiến của GS Trần Quốc Vượng; người viết cũng đồng ý rằng đây là một sự trấn yểm sông Tô lịch, song không chỉ căn cứ vào niên đại của một số đồ gốm nhặt được mà cho rằng sự việc xẩy ra vào thời Lý – Trần. Nếu theo Truyền thuyết “Tại sao sông Tô lịch và sông Thiên Phù hẹp lại” hay truyền thuyết “sự tích Ông Dầu bà Dầu”, tác giả của sự việc trên là các vị Vua nhà Lý, nhằm trấn yểm sự Báo thù của Ông bà Dầu, thì không có sự việc sông Tô Lịch và Thiên Phù cứ ngày càng hẹp lại, đến nay chỉ còn là một con sông nhỏ xíu, làm nhiệm vụ thải nước bẩn cho Hà Nội. Ta nhớ rằng theo sử sách sông Tô lịch ngày xưa rất rộng, trên bến, dưới thuyền, là trục giao thông chính thủa ấy. Mặt khác thời Lý Trần có rất nhiều nhà Phong Thủy Việt nam tài giỏi như : Thiền sư Định Không làng Cổ pháp (Sư thọ 79 tuổi – Năm 808), Sư La chân Nhân (852 -936), Sư Vạn Hạnh..
Dĩ nhiên các vị sư đó không thể nào để cho các Vua Lý trấn yểm sông Tô Lịch và Thiên Phù, để đến nỗi sông Tô Lịch và Thiên Phù cứ ngày càng hẹp lại và ngôi báu vua Lý chẳng bao lâu về tay nhà Trần. Dòng họ Lý bị tuyệt diệt đến nỗi chỉ có người nào đổi qua họ Nguyễn mới thoát khỏi.
Bây giờ ta xét sự việc dưới một góc độ khác qua các sự kiện Lịch sử và các truyền thuyết còn lưu lại trong dân gian. chấm điểm sim
Tới đời vua Đường Y Tôn (841-873), Cao Biền được cử sang đất Việt làm Tiết Độ sứ. Cao Biền là một con người đa hiệu : Vừa là một vị Tướng, vừa là một nhà Phù thủy, một Đạo sĩ, cũng là một nhà Phong thủy có tài. La Thành được Cao Biền sửa chữa, chỉnh đốn lại cho hợp Phong Thủy vào các năm : 866, 867, 868.
Theo truyền thuyết, khi Cao Biền xây dựng lại thành Đại La, thì khu vực thi công có hiện tượng sụp lở đất. Cao Biền liền tiến hành trấn yểm Thần sông Tô lịch và một số điểm khác như đền thờ Thần Bạch mã, núi Tản Viên. Sau đó công viêc xây dựng mới có thể hoàn tất.
Tới đây, ta nhớ lại một truyền thuyết khác của dân tộc Việt nam. Đó là “Truyền thuyết Thành Cổ Loa” Tương truyền rằng khi xây dựng thành Cổ loa, An Dương Vương cũng xây mãi mà thành vẫn bị đổ. Khi đó Rùa Thần hiện ra chỉ cách cho xây và cho một cái móng chân, lúc đó thành Cổ loa mới có thể xây dựng xong”.
Tới đây, ta buộc phải tự đặt câu hỏi : Có sự trùng hợp giữa hiện tượng sụp đất của Thành Cổ loa, sự sụp đất của thành Đại la và sự sụp lở đất không thể khắc phục được trên công trình nạo vét sông Tô Lịch ?.
Qua hai truyền thuyết trên, bỏ qua các sự việc có tính chất dị đoan, chúng ta phải chấp nhận một sự thực là : Vùng đất từ đầu nguồn sông Tô Lịch kéo dài đến Cổ Loa – Đông Anh Hà Nội là một vùng đất có địa tầng địa chất không ổn định. Ta cũng cần phải nhớ rằng : Núi Tản viên nằm ở hướng Tây, Hà Nội. Mặt khác phía Tây và Tây Bắc của La Thành là một vùng núi non trùng điệp của các tỉnh Hòa Bình, Sơn La, Lai Châu…
Theo định nghĩa của môn Phong Thủy, Long Mạch xuất phát từ những rặng núi cao. Núi mà từ đó khởi nguồn Long mạch gọi là Tổ sơn. Ngoài ra Long mạch còn xuất phát từ những khu vực khác gọi là Thiếu sơn. Ta cũng biết rằng thiên khí từ trên trời luôn có tính chất giáng xuống, các đỉnh núi cao là những antena tiếp thu sinh khí. Từ những sự việc trên, ta cảm nhận được rằng có một Long mạch rất lớn bắt nguồn từ núi Tản Viên và các rặng núi phía Tây, Tây bắc của Thành Đại la kéo dài qua thành Đại La theo dọc sông Tô Lịch (khí thường đi theo nước), chạy qua khu vực Hồ Tây bây giờ (Hồ Tây trước kia là một khúc của dòng sông Hồng), sau đó sang tới tận địa phận Cổ Loa – Đông Anh – Hà Nội và còn theo hướng Đông, Đông Bắc đi tiếp. ý nghĩa số điện thoại
– Tiếp theo là truyền thuyết Cao Biền dùng hơn 4 tấn sắt, đồng… chôn để trấn yểm đền Bạch Mã là nơi vị thần sông Tô Lịch trú ngụ. Cao Biền còn nhiều lần dựng đàn tràng, dùng 4 thứ kim loại : sắt, đồng, vàng, bạc trấn yểm nhiều nơi trên bờ sông Tô Lịch. Theo sử sách, Cao Biền đã đặt bùa trấn yểm tới 19 nơi dọc theo sông Tô Lịch.
Thời bấy giờ nước Nam có nhiều vị đại sư tài ba lỗi lạc, hiểu biết rất giỏi về Nho,Y, Lý số và thuật Phong Thủy đã hóa giải sự trấn yểm của Cao Biền bằng phép Huyền môn. Các đại sư thường tụ tập tại ngôi đền Sơn Tinh Thủy Tinh ở núi Ba vì, hay ở đền Bạch Mã, dùng những hiểu biết về Phong Thủy để trấn áp bùa phép của Cao Biền.
Trở lại, đạo bùa tìm thấy trên lòng sông Tô Lịch, có rất nhiều lý do để có thể kết luận rằng : Đó là tác phẩm của Cao Biền, chứ không phải là của các nhà vua Lý. Tác phẩm đó là của Cao Biền đời nhà Đường, thuộc về thế kỷ 9, tức là trước thời các nhà Lý khoảng 200 năm (Lý thái Tổ -Năm 1010). Nếu xét về niên đại của cổ vật tìm thấy, thì trong khoảng 200 năm các cổ vật trên cũng không có sự thay đổi nhiều. Cũng không loại trừ trường hợp các cổ vật ở trên đất liền rớt xuống lòng sông thời gian sau khi Cao Biền trấn yểm.
Bây giờ ta lại xét đến mục đích của Cao Biền khi trấn yểm sông Tô Lịch. Cho tới tận giờ phút này, khi các bạn và tôi đang ngồi bên máy vi tính, người ta vẫn sử dụng các thủ thuật : Châm cứu, điện chẩn, xoa bóp, bấm huyệt… để chữa bệnh. Tất cả các thủ thuật đó đều dựa trên lý thuyết về hệ thống kinh mạch, huyệt, lạc trong cơ thể con người. Người ta xác định được hàng ngàn vị trí huyệt đạo trong cơ thể con người. Tùy theo từng trường hợp khi châm cứu, người ta dùng kim tam lăng để châm vào các huyệt khác nhau, với thời gian và độ nông sâu khác nhau. Trong dân gian còn lưu truyền các biện pháp bấm, điểm huyệt có thể làm cho một bộ phận nào đó của cơ thể không còn khả năng cử động, hoặc nặng hơn là bộ phận đó không còn sử dụng được.
Ta vẫn biết rằng : Thiên Địa Nhân là hợp nhất. Mọi vật thể từ Vi mô cho đến Vĩ mô đều phải tuân theo những quy luật chung của sự tương tác vũ trụ. Phải nói dài dòng như vậy để có thể tạm kết luận rằng, trên trái đất này cũng phải có những đường kinh mạch, huyệt, lạc như trong cơ thể con người. Trái đất này là một cơ thể sống chứ không phải là một cục đất chết như nhiều người vẫn nghĩ. Ta cũng có thể suy ra một hệ quả rằng : Tại một điểm nào đó, người ta có thể dùng một thủ thuật nào đó, có thể ngăn, bế hoặc chặn đường đi của một Long mạch như Cao Biền đã làm. Thủ thuật này người xưa gọi là trấn yểm. số điện thoại phong thủy
Bây giờ ta tạm thời đưa ra
1. Đạo Bùa trấn yểm trên dòng sông Tô Lịch là của Cao Biền – Tiết độ sứ của nhà Đường, dùng để trấn yểm long mạch, khi tiến hành xây dựng thành Đại La vào thế kỷ 9. Đó là 1 trong 19 nơi mà Cao Biền đã thực hiện trấn yểm. Đạo Bùa đó hoàn toàn không phải do các Vua thời nhà Lý trấn yểm trong truyền thuyết “Ông Dầu bà Dầu” khoảng 200 năm sau khi Cao Biền thực hiện chấn yểm.
2. Chấp nhận có một Long mạch rất lớn xuất phát từ phía Tây của thành Đại La (Các dãy núi thuộc các tỉnh Hòa Bình, Sơn La, Lai Châu, và gần nhất là dãy núi Tản Viên); Long mạch này đi qua thành Đại La, cụ thể theo dọc sông Tô Lịch, qua khu vực Hồ Tây, kéo dài sang Cổ Loa – Đông Anh; Long mạch này còn kéo dài tới dãy Yên Tử và theo hướng Đông Bắc tới tận Quảng Ninh. Đây chỉ là nhánh Thanh Long của đồng bằng Bắc Bộ. Nhánh Bạch Hổ khi có điều kiện tôi xin chứng minh tiếp.
3. Cao Biền đã thực hiện biện pháp trấn yểm Long mạch, nhằm bế dòng khí của Long mạch này. Thủ thuật trấn yểm tương tự như thuật điểm huyệt trong đông y học.
1. Tại sao có hiện tượng kỳ lạ và bí ẩn đã xẩy ra cho các công nhân trong đội xây dựng số 12. Bản chất hiện tượng đó như thế nào ?
2. Tại sao sau khi Cao Biền trấn yểm sông Tô Lịch, kể từ đó tới tận ngày hôm nay, trong lịch sử ta không còn nghe có vụ sụt lở đất nào khác ngoại trừ trường hợp trên sông Tô Lịch đã nêu ở trên sau khi người ta đã rút các cọc trấn yểm lên.
3. Hậu quả của việc rút bùa trấn yểm lên sẽ như thế nào đối với khu vực dọc theo sông Tô Lịch nói riêng và cả khu vực Hà Nội, các vùng phụ cận nói chung. Hậu quả sẽ như thế nào đối với Long mạch đi qua thành Đại la ?
4. Biện pháp khắc phục sự việc trên như thế nào ? Người ta có thể hàn lại Long mạch như Thượng Tọa Thích Viên Thành đã thực hiện hay không ? Trường hợp khôi phục lại Bùa chấn yểm đó xấu hay tốt ?.
Người viết xin được lần lượt lý giải các vấn đề trên như sau :
1. Tại sao có hiện tượng kỳ lạ và bí ẩn xảy ra cho các Công nhân trong đội xây dựng số 12
– Bản chất của hiện tượng đó như thế nào ?.
Trong thuật Phong Thủy, Khí là một hiện tượng rất khó giải thích, nhưng nó là một khái niệm cơ bản của thuật Phong Thủy. Nhận định đúng về Khí là chìa khóa mở vào lý thuyết cốt yếu của Phong Thủy. Theo quan niệm Á đông, Khí ẩn tàng làm động lực cho Trời đất vạn vật. Khí không những hội tụ trong các vật thể hữu hình mà còn tản mát vô hình sau khi vật thể tan rã để tạo thành những thể rất Linh thiêng gọi là Linh Khí của Vũ trụ.
Người xưa có câu : Tụ là hình tán là Khí. Ngày nay Khoa học phát hiện được một vài dạng của Khí, gọi là Plasma sinh học, các dạng đó có thể đo, đếm được. Trong Đông Y học người ta phát hiện Hệ thống Kinh, Mạch, Huyệt là đường vận hành của Khí từ rất xa xưa. Người ta phát hiện rằng : Khí vận hành trong Kinh, Lạc như một dòng nước, chỗ đi ra gọi là Tĩnh, trôi trảy gọi là Huỳnh, dồn lại gọi là Du, đi qua gọi là Kinh, nhập lại gọi là Hợp. Đường Kinh không đơn giản là một ống dẫn vật chất nào đó. Đường Kinh là một chùm ống dẫn Khí Ngũ hành xuyên suốt các cơ quan, bộ phận của một Tạc tượng. Ngoài ra người xưa còn biết rất sâu về bản chất của Khí, có một lý thuyết về Thời châm vô cùng chính xác là Tí Ngọ lưu trú và Linh Quy bát pháp. xem bói sim
Đó là trên cơ thể con người, còn trong Phong Thủy, người ta quan niệm rằng Nguyên Khí trong lòng đất, tương tự như hệ thống mạch, huyệt trong Đông Y. Nguyên Khí được xem là gắn bó với nước, nước giúp Khí di chuyển, nước đi thì Nguyên Khí cũng đi, nước ngừng thì Nguyên khí cũng ngừng. Sinh Khí tụ mạnh nhất là nơi giao hội của nước (nơi các dòng sông hội tụ chẳng hạn). Người viết chỉ nêu ra một số quan niệm về Khí, dùng cho việc chứng minh luận điểm của mình, còn Lý thuyết về Khí thì vô cùng, vô tận. Mặt khác, có thể tìm hiểu cơ chế của mối quan hệ giữa hài cốt người chết đối với người thân thích còn sống như thế nào ?.
Trở lại câu chuyện trên dòng sông Tô Lịch : Người viết cho rằng : Long mạch đã nói ở phần trên bị Cao Biền trấn yểm đúng Huyệt vị, đã bị ngăn chặn lại tại nơi có đạo bùa trấn yểm. Hậu quả của đạo bùa này làm cho Nguyên Khí không thể tiếp tục đi theo hành trình vốn có của nó, làm cho vùng đất dọc theo Long mạch sau khi bị trấn yểm trở nên cứng hơn, ổn định hơn. Bằng chứng là về sau này ta không còn nghe được sự việc sụt lở đất tương tự như thế nữa. Ta có thể hình dung hơi thô thiển là Long Mạch giống như một mạch máu, bị cột lại một đầu, không cho dẫn máu tới các vùng sau đó được nữa. Các bộ phận cơ thể đằng sau chỗ bị cột vì không có máu nuôi nên dần dần bị khô, teo đi. Ta cũng để ý một điều rằng : Thành phố Hà Nội ngày nay có rất nhiều hồ nước con đang tồn tại như hồ Tây, hồ Gươm, hồ Bảy mẫu, hồ Ha Le…
Mặt khác sông Tô Lịch và Thiên Phù dần dần bị hẹp đi và giờ đây chỉ còn là con mương nhỏ dẩn nước thải cho Hà Nội. Ở đây có một câu hỏi thú vị là :
– Nếu như Cao Biền (vốn được coi là tổ sư của Phong Thủy) đã quyết tâm trấn yểm tiêu diệt dòng sông Tô Lịch thì sao cho đến tận bây giờ sông Tô Lịch vẫn còn tồn tại (mặc dù chỉ là con mương nhỏ). Theo người viết, nếu Cao Biền trấn yểm đúng thì ngày nay ta chỉ còn nghe đến tên của nó qua lịch sử.
Đến đây người viết khẳng định : Cao Biền có sự sai lầm trong việc trấn yểm. Nguyên nhân sự sai lầm của Cao Biền chính là sự hiểu biết vô cùng chính xác của các vị Vua Hùng – Tổ tiên của người Việt chúng ta trong thuật Phong Thủy nói riêng và trong Thuyết Âm Dương, Ngũ Hành nói chung. Vì tiên đoán được các sự việc sẽ xẩy ra, sau khi mất nước, các Vua Hùng đã cố ý làm sai lạc một phần của Thuyết Âm Dương Ngũ Hành. Người viết xin chứng minh vấn đề này ở phần sau.
– Tại chỗ có đạo bùa, Nguyên Khí bị bế lại lâu năm, khi tháo gỡ đạo bùa, giống như tháo bỏ chỗ bị cột trong mạch máu, Nguyên khí bị thoát ra ngoài tại vị trí chấn yểm và lan tỏa ra xung quanh. Ta chưa xét đến sự tốt xấu của dòng Khí đó với cơ thể con người. Chỉ biết một điều rằng : Chính dòng Khí đó làm mất cân bằng cục bộ môi trường xung quanh chỗ đường Khí được giải phóng. Chính vì vậy những người Công nhân đang làm việc tại khu vực đó bị các hiện tượng kỳ lạ đã nêu ở phần đầu. Khi cơ thể con người bị mất cân bằng về Khí dẫn đến hiện tượng mất khả năng hoạt động Thần kinh.
Như vậy cũng chẳng có gì khó hiểu khi các công nhân đội xây dựng só 12 gặp phải. Ngoài ra do ảnh hưởng của Quy luật “Đồng thanh tương ứng – Đồng Khí tương cầu”, hay là hiện tượng cộng hưởng Harmonic mà Thân nhân, dòng họ của những người công nhân đội xây dựng số 12 phạm phải, mặc dù họ không trực tiếp có mặt trên công trường. Đó là hiện tượng cũng dễ hiểu. Có điều nguy cơ tiềm ẩn ở đây là : Nơi dòng Khí thoát ra sẽ ảnh hưởng như thế nào đối với Hà Nội ?. Đây là một vấn đề quan trong cần có sự nghiên cứu nghiêm túc.
2. Trả lời cho câu hỏi : Tại sao sau khi có sự trấn yểm của Cao biền,vùng đất dọc theo Long mạch kể từ chỗ bị trấn yểm trở nên cứng và ổn định hơn và từ đó về sau này ta không còn nghe có các vụ sụt lở đất ở khu vực dọc theo Long mạch tương tự nữa, ngoại trừ trường hợp đã xẩy ra trên sông Tô Lịch, khi đạo Bùa trấn yểm đã được nhổ lên ?.
Tiếp tục phát triển tính nhất quán của phần trên : Khi đường Khí của Long mạch đã bị bế lại, nguyên Khí không thể tới được các vùng đất ở sau chỗ trấn yểm được nữa, và Nguyên Khí luôn có nước đi cùng nên lượng nước tới các vùng đó cũng bị giảm đi. Kết quả là vùng đất sau chỗ bị trấn yểm cứng lên, và kết cấu của Địa tầng, địa chất cũng trở nên ổn định hơn. Khi một vùng đất đã có địa tầng địa, chất ổn định thì tất yếu dẫn đến các vụ sụt lở đất khi xây dựng các công trình tự nhiên mất đi. Đó là một sự việc không có gì là bí ẩn trong nghệ thuật xây dựng hiện nay.
Tại công trình nạo vét sông Tô Lịch, khi đạo bùa chấn yểm bị nhổ lên, lập tức Nguyên khí bị phong tỏa ùa thoát ra ngoài với một tốc độ và lưu lượng vô cùng lớn, làm cho đất, đá của cả khu vực nhão ra như bùn, trở nên mất ổn định cục bộ. Ở đây ta cũng cần lưu ý rằng : Khi Nguyên khí thâm nhập vào lòng đất quá nhiều thì không chỉ đất, cát mà thậm chí cả đá hay các vật thể rắn khác đều trở thành bùn nhão, bởi tính chất của Nguyên khí khác với tính chất của nước. Ta cũng để ý rằng nơi nào mà nguyên khí ít ỏi hoặc không có vùng đó sẽ trở nên khô cằn, cây cối không thể phát triển được. Đó là trường hợp của các sa mạc, hoang mạc trên trái đất. Tại núi Ngự bình ở Huế cũng có trường hợp tương tự. Rất nhiều lần người ta tổ chức trồng cây trên núi Ngự bình song đều thất bại. sim hợp mệnh
Như vậy, ta có thể kết luận rằng : Trong quá trình xây dựng Thành Đại la, Cao Biền gặp một vùng đất có kết cấu không ổn định nên đã thực hiên việc trấn yểm kể trên với mục đích làm cho đất cứng và ổn định hơn trước. Biện pháp thực hiện là dùng thủ pháp điểm huyệt đất tương tự như thủ thuật châm cứu, điểm huyệt trong đông Y. Ở đây còn có ý nghĩa sâu xa là trấn yểm các Long mạch, các huyệt phát Đế Vương của đất Việt. Tuy nhiên vì có sự sai lầm về độ số hướng Tây nên sự trấn yểm không được trọn vẹn.
Phần 2: xem tiếp tại link Thuật phong thủy của Cao Biền trấn yểm sông Tô Lịch (2)
Chuyện Thiền Sư Việt Phá Giải Thuật Phong Thủy Của Cao Biền
Câu chuyện ly kỳ về việc thiền sư Việt phá giải thuật phong thủy của Cao Biền được ghi chép lại trong “Thiền Uyển tập anh”.
“Thiền uyển tập anh” hay “Ðại Nam thiền uyển truyền đăng tập lục” là tài liệu lịch sử cổ nhất của Phật giáo Việt Nam, ghi lại tương đối hệ thống các tông phái Thiền học và sự tích các vị Thiền sư nổi tiếng từ cuối thế kỷ 6 đến thế kỷ 13, tức là vào cuối thời Bắc thuộc cho đến thời Đinh, Lê, Lý và một số ít vị lớp sau còn sống đến đầu triều Trần.
Theo sách “Thiền Uyển tập anh” ghi chép thì vào thời nhà Đường ở Trung Quốc, vua Đường Ý Tông muốn xâm chiếm nước Nam, nhưng nhận thấy vùng đất nơi đây thời kỳ nào cũng có những nhân tài nổi lên. Vua Đường bèn tìm cách trấn yểm linh khí của nước Nam.
Năm Giáp Thân (864), vua Đường cho Cao Biền là một nhà phong thủy đại tài của Trung Quốc thời đó đến Giao Châu làm Tiết Độ Sứ. Khi đi, vua Đường dặn dò Cao Biền rằng:
“Trưng Thị là hai người đàn bà mà làm rung chuyển cả cơ nghiệp nhà Đông Hán; rồi lại Triệu Ẩu, Lý Bôn … Làm cho ta vất vả lắm mới dẹp được. Nay trẫm thấy linh khí An Nam quá thịnh, e sau có biến. Khanh đến đó trước bình giặc Nam Chiếu, sau tìm cách trấn yểm linh khí An Nam, đi và vẽ bản đồ về cho trẫm.”
Cao Biền đi khắp nơi xem xét địa thế và phát hiện có rất nhiều linh khí ở nước Nam. Khi cho xây thành Đại La bên sông Tô Lịch, biết đất ở làng Cổ Pháp có khí tượng Đế vương, Cao Biền đã cắt đứt long mạch nơi đây bằng cách đào đứt con sông Điềm (các nghiên cứu cho rằng có thể là sống Đuống ngày nay) và 19 điểm ở ao Phù Chẩn (thuộc làng Phù Chẩn, thị trấn Từ Sơn, Bắc Ninh).
Tuy nhiên, việc Cao Biền phá hoại phong thủy đã bị thiền sư nước Nam tiên đoán từ trước…
Câu chuyện bắt đầu từ thiền sư Định Không thuộc thế hệ thứ 8 thiền phái Tì Ni Đa Lưu Chi (diệt hỷ), ở chùa Thiện Chúng thuộc địa phận hương Dịch Bảng, phủ Thiên Đức. Khoảng niên hiệu Đường Trinh Nguyên (785-805), sư dựng chùa Quỳnh Lâm ở bản hương. Khi xây chùa, thợ làm móng đào được một bình hương và mười chiếc khánh đồng. Sư sai người đem ra sông rửa sạch, một chiếc rơi xuống sông trôi liệng mãi đến khi chạm đất mới nằm im.
Sư giải thích rằng: Thập khẩu là chữ cổ, Thủy khứ là chữ Pháp. Còn thổ là chỉ vào hương ta. Nhân đó đổi tên hương Diên Uẩn thành hương Cổ Pháp. Và có đọc hai câu thơ rằng:
Pháp khí xuất hiện thập khẩu đồng chungPháp khí hiện ra mười cái chung đồngHọ Lý làm vua ba phẩm thành công. Lý hưng vương tam phẩm thành công.
Dịch là:
“Ngày trước, Cao Biền đã xây thành bên sông Tô Lịch, dùng phép phong thủy, biết vùng đất Cổ Pháp của ta có khí tượng Đế vương, nên đã nhẫn tâm đào đứt sông Điềm và khuấy động 19 chỗ trấn yểm ở Phù Chẩn. Nay ta đã chủ trì lắp lại những chỗ bị đào đứt được lành lặn như xưa. Trước khi ta mất, ta có trồng tại chùa Châu Minh một cây bông gạo. Cây bông gạo này không phải là cây bông gạo bình thường, mà là vật để trấn an và nối liền những chỗ đứt trong long mạch, mục đích để đời sau sẽ có một vị hoàng đế ra đời và vị này sẽ phò dựng chính pháp của chư Phật”.
Ngay từ trước khi Cao Biền nhận lệnh trấn yểm nước Nam thì năm 808, thiền sư Định Không đã cho gọi người kế tục mình là Thông Thiện đến dặn dò trước khi viên tịch rằng: “Ta muốn mở rộng làng xóm, nhưng e nửa chừng gặp tai họa, chắc có kẻ lạ đến phá hoại đất nước ta. Sau khi ta mất, con khéo giữ pháp này, gặp người họ Đinh thì truyền, nguyện ta đã mãn”. Vậy là vị thiền sư đã tiên đoán được việc Cao Biền phá phong thủy, và việc người kế tục đệ tử của ông sẽ mang họ Đinh.
Sau này, sư Thông Thiện gặp một đệ tử rất thông minh là Đinh La Quý. Đoán biết đây là người kế tục mình nên ông đã truyền thụ hết các sở học cho đệ tử.
Theo dân gian thì ngài La Quý tùy phương diễn hóa, nói ra lời nào đều là lời sấm truyền. Ngài rất thông tuệ, nhìn xuyên sông núi, biết rõ nguồn gốc phong thủy, biết quá khứ và tiên đoán được tương lai.
Đại sơn đầu rồng ngửngĐuôi cù ẩn Châu minhThập bát tử định thànhBông gạo hiện long hìnhThỏ gà trong tháng chuộtNhất định thấy trời lên
Chính ngài La Quý là người đã nối lại long mạch cho làng Cổ Pháp. Năm 936 (thời Dương Đình Nghệ), biết mình sắp mất, ngài La Quý gọi đệ tử chân truyền của mình là Thiền Ông đến nói:
Thiền sư La Quý còn cẩn thận dặn dò Thiền Ông rằng: ” Sau khi ta tịch, con khéo đắp một ngọn tháp bằng đất, dùng phép, yểm dấu trong đó, chớ cho người thấy”.
Vậy việc nối lại khí tượng đế vương làng Cổ Pháp có tác dụng không? Vị đế vương làng Cổ Pháp là ai? Trong sách “Thiền Uyển tập anh” có ghi chép rằng, trước khi mất ngài La Quý có làm một bài thơ tiên đoán như sau:
Dịch là:
Ở câu thứ 3 “thập bát tử” tức chữ thập (+), chữ bát (八), chữ tử (子) tạo thành chữ Lý (李) ý chỉ vị vua sau này mang họ Lý. Hai câu sau nói ra vị vua này lên ngôi vào tháng chuột (tháng 11) năm gà (tức năm dậu 1009). Vị vua mang họ Lý lên ngôi vua vào tháng 11 năm 1009 chính là vua Lý Công Uẩn.
Năm 1009, trước khi Lý Công Uẩn lên ngôi, một tia sét lớn đánh vào cây bông gạo khiến cây bị gãy cành, nhưng cây không chết. Chính vì thế mà làng Diên Uẩn, Cổ Pháp còn gọi là làng Dương Lôi hay Đình Sấm. Có giả thiết cho rằng sự việc này cũng là do thầy phong thủy Trung Quốc làm.
Đúng như lời đoán trước khi mất của thiền sư La Quý, vua Lý Công Uẩn là người làng Cổ Pháp. Khi ông lên ngôi đã duy hộ Phật Pháp, dùng Phật Pháp để giáo hóa muôn dân, khiến đạo đức thăng hoa, xã hội ổn định. Kể từ đó, Đại Việt hùng mạnh, mở ra thời kỳ thịnh trị.
Vào thời nhà Lý, Đại Việt bị kẹp giữa gọng kìm bởi liên minh Tống – Chiêm, thế nhưng nhà Lý không chỉ giữ vững Giang Sơn mà còn có những cuộc Nam – Bắc tiến phá tan gọng kìm liên minh Tống – Chiêm.
Năm 1069, vua Lý Thánh Tông cùng danh tướng Lý Thường Kiệt dẫn quân Nam tiến đánh Chiêm Thành, chiếm thành và bắt sống vua Chiêm.
Lấy tấn công để phòng thủ, năm 1075, Lý Thường Kiệt đưa quân Bắc tiến, đánh sang đất Tống. Quân Đại Việt chiếm nhiều Châu Trại trên đất Tống như Khâm Châu, Liêm Châu, Lộc Châu, Bạch Châu, Ung Châu. Quân Tống đại bại, hàng chục tướng nhà Tống bị tử trận. (Xem bài: Lý Thường Kiệt: Từ hoạn quan đến vị tướng tài lừng danh sử Việt)
Sự lên ngôi của vua Lý Công Uẩn đã mở ra thời kỳ cường thịnh của Đại Việt.
Mời xem video:
“Cao Biền Trấn Yểm Nhân Tài Nước Ta” Có Phải Là Sự Thật?
Sự thực thì việc Cao Biền trấn yểm các Long Mạch ở nước ta để triệt hạ nhân tài là… việc có thật! Không bàn về trấn yểm ấy có hiệu quả hay không cũng như tính khoa học đúng hay sai của hành động đó nhưng hiện chúng ta có những chứng cứ cụ thể khẳng định điều này. Một trong những chứng cứ đó chính là cuốn sách “Cao Biến tấu thư địa lý kiểu tự” mà một tác giả VN có sưu tầm.
Đây là cuốn sách mà năm 1247 khi Lê Lợi công phá thành Đông Quan có bắt được bắt được Hoàng Phúc – Thượng thư bộ Công của nhà Minh nên thu được. Sở dĩ Hoàng Phúc có nó là do Minh Thành Tổ Chu Đệ trao cho ông ta với nhiệm vụ xét duyệt lại xem còn huyệt lớn nào mà Cao Biền chưa yểm thì yểm nốt. Có thể ngày nay người ta không tin vào điều này nữa nhưng thời kỳ đó thì quan niệm như vậy là rất phổ biến trong giới trí thức Nho học cũng như trong đầu óc các vua chú Trung Hoa, họ có niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh của phong thủy địa lý.
Thế nên âm mưu của nhà Minh là hòng làm cho đất Đại Việt không thể nào sản sinh ra được những thế hệ như Ngô Quyền, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo những anh hùng đã dẫn dắt dân Việt quật khởi, để Đại Việt lại quay về thời là quận huyện của đế chế Trung Hoa như mấy trăm năm trước.
Nước Việt ở phương Nam tuy nhỏ bé song chưa bao giờ phai mờ trong ký ức các nhà cầm quyền Trung Quốc. Bằng chứng là đến tận hơn 200 năm sau con cháu của Chu Đệ là Chu Do Kiểm tức hoàng đế Sùng Trinh vị vua cuối cùng của nhà Minh vẫn còn nhớ mối hận với dân Việt nên khi Thám Hoa Giang Văn Minh dẫn đầu đoàn sứ nhà Lê Trịnh sang Trung Quốc ông ta ra câu đối cho đoàn sứ bộ đầy tính khiêu khích: “Đồng trụ chí kim đài dĩ lục” – Đồng trụ đến giờ rêu vẫn mọc
Câu này có hàm ý nhắc tới việc Mã Viện từng đàn áp cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, sau đó cho chôn một chiếc cột đồng với lời nguyền: “Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt” – Cột đồng gãy thì Giao Chỉ bị diệt vong.
Trước thái độ đó Giang Văn Minh đã hiên ngang đối lại bằng câu: “Đằng Giang tự cổ huyết do hồng” – Bạch Đằng thuở trước máu còn loang.
Vế đối này vừa chỉnh, vừa có ý nhắc lại việc người Việt đã ba lần đánh tan quân xâm lược phương Bắc trên sông Bạch Đằng.
Song khí phách hiên ngang đó lại là sự bất kính đối với hôn quân Sùng Trinh nên bất chấp luật lệ bang giao, đã trả thù bằng cách trám đường vào miệng và mắt ông, rồi cho người mổ bụng xem “bọn sứ thần An Nam to gan lớn mật đến đâu”. Sự việc này xảy ra vào ngày mùng 2 tháng 6 năm Kỷ Mão (1639).
Sách Hán – Nôm: Cao Biền Tấu Thư Địa Cảo
Còn bản dịch của cuốn “Cao Biến tấu thư địa lý kiểu tự” được Giáo sư Cao Trung dịch lại trong cuốn “Địa Lý Tả Ao của Cao Trung, Nhà xuất bản Hồng Dân, Sài Gòn, xuất bản năm 1974, ai quan tâm có thể lấy đó làm keyword để tìm đọc.
Địa lý phong thủy có phải trò mê tín?
Rõ ràng là những thứ ở trên đều là người thật việc thật cả, vậy có nên xét cho kỹ xem khoa địa lý phong thủy có phải thuần túy là trò mê tín dị đoạn hay không?
Xưa nay nguồn gốc sinh ra các tệ mê tín dị đoan là bởi bọn thày phù thủy, thuật sĩ giang hồ chủ đích bày ra che mắt đám đông dốt nát nhằm kiếm chác còn đằng này Cao Biền là một tiết độ sứ, là vị “toàn quyền” của Giao Chỉ, quyền lực của ông ta cũng ngang ngửa với quyền lực của các vua chúa Việt Nam sau này nên chắc chắn những hành động ông ta làm không thể có động cơ giống với đám người kia được, do đó các sản phẩm của ông tạo ra không phải là thứ hàng fake. Tức là kết luận về các huyệt đất kết được nói đến trong “tấu thư” là kết quả của quá trình khảo sát thực địa được đem phối kết hợp với khả năng học thuật của ông ta mà ra.
Bất kể thế nào Cao Biền cũng thuộc tầng lớp quan lại trí thức đương thời, và địa lý phong thủy được xem là học thuật chính thống của thời kỳ đó với hệ thống lý luận riêng của mình, nên chúng ta cũng cần suy nghí về mức độ tin cậy của “kết quả nghiên cứu” đó. Trước đây cái nhìn của mình về phong thủy cũng không khác mấy so với thái độ của anh Khôi và anh Minh bây giờ, nhưng sau đó quan điểm của mình có nhiều thay đổi. Mình cũng là một người duy lý nên bản thân lý luận của môn phong thủy cho đến bây giờ vẫn không thuyết phục được mình tin vào nó, tuy nhiên môn này tồn tại và đứng vững cả ngàn năm nay không phải trông cậy vào lý luận của nó đưa ra, mà là ở những bằng chứng thực tế mà nếu không dựa vào khoa địa lý phong thủy mà đi tìm kiếm một lời giải khác thì rất khó có câu trả lời. Và bản thân mình cũng đã gặp những dữ kiện bắt buộc mình phải đặt câu hỏi với chinh sự hoài nghi của mình…
Họ Vũ Khoa Bảng
Có lẽ cả nước đều biết đến một ngôi làng rất nổi tiếng là làng Mộ Trạch xã Tân Hồng huyện Bình Giang – Hải Dương, làng này còn có một cái tên khác là “Làng Tiến sĩ” bởi đây là nơi phát tích khoa bảng rực rỡ độc nhất vô nhị ở Việt Nam, tính từ thời Trần đến hết thời Lê Trung Hưng làng này đã có tới 36 vị tiến sĩ đại khoa trong đó họ Vũ chiếm ưu thế tuyệt đối với 9 hoàng giáp và 20 tiến sĩ. Vua Tự Đức cũng đã có lời khen ngợi về sự học của làng Mộ Trạch “Mộ Trạch nhất gia bán thiên hạ”- Một làng Mộ Trạch bằng nửa thiên hạ ( về số người tài ).
Cổng làng Mộ Trạch
Làng này cũng là quê ngoại của vợ mình, mẹ vợ mình là người họ Vũ Xuân một nhánh của họ Vũ tính từ tổ họ Vũ Hồn. Vì là quê vợ nên cũng có về đây vài lần các dịp giỗ tết, thấy ở đó có cái đình rất lớn, cổng làng cũng là làng to nhất Việt Nam, trong đình thì thờ ông tổ Vũ Hồn.
Nhưng điều kỳ lạ nhất là mộ tổ nhà họ Vũ lại không nằm ở làng này mà nó lại nằm ở….quê nội của mình tức là ở tận huyện Nam Sách cách đó mấy chục cây số. Nếu ai từng đi qua thị trấn Nam Sách, Hải Dương thì cách đó vài trăm mét có một cái biển chỉ đường rất lớn dẫn lối vào mộ Tổ họ Vũ Võ Việt Nam.
Hiện nay người ta vẫn tin rằng tất cả những người họ Vũ và họ Võ trên đất Việt Nam đều phát tích từ làng Mộ Trạch, lý do họ Võ cũng quy thuộc về họ Vũ bởi ở khu vực Đàng Trong – từ Quảng Bình trở vào thời Trịnh Nguyễn phân tranh, chúa Nguyễn Phúc Khoát có hiệu là Vũ Vương nên những người họ Vũ đều phải đổi thành Võ để tránh kỵ húy, việc này cũng tương tự đối với họ Hoàng để tránh phạm húy tên chúa Nguyễn Hoàng phải đổi cách gọi sang họ Huỳnh.
Thực ra thì ngôi mộ này nằm ở đó cà nghìn năm rồi và dù ở quê mình thật, từ bé năm nào cũng về quê bao nhiều lần nhưng mình cũng chẳng biết là nó nằm ở đó. Chỉ sau này lấy vợ rồi về quê vợ mới biết cái thuyết họ Vũ Võ chung một nguồn gốc kia mới để ý. Có lần 2 vợ chồng mình về Nam Sách nhìn thấy cái biển đó mình mới trêu vợ mình là “Sao ông tổ nhà em bên Mộ Trạch đất đai rộng rãi, con cháu đầy đàn thế mà lại sang quê nhà anh làm dân ngụ cư thế này?” Vợ mình thì cũng chẳng hiểu mô tê răng rứa ra làm sao, cũng thấy thật khó hiểu, chỉ tức tối vì bị đá xoáy…
Về sau mình đọc một cuốn sách về phong thủy cũng do một người là con cháu họ Vũ làng Mộ Trạch viết ra mới biết được gốc tích của ngôi mộ này. Trong cuốn sách một bài thơ được trích ra từ tộc phả họ Vũ làng Mộ Trạch như sau:
Trải bao đời thanh bạch có nhau Cụ Vũ Huy ở bên Tàu Thuộc tỉnh Phúc KiếnThường Châu là nhà Vốn nho gia lại là nhà địa lý Sang Việt Nam chủ ý tầm long Đi đến Nam Sách tỉnh Đông Thấy đất bách nhạn bay trông hồi sào Đem mộ tổ táng vào chính huyệt Đất công khanh phát tiếp muôn đời Một miếng đất như chìm như nổi Trăm nhạn bay tụ hội hồi sào Giữa đồng gò đống nổi cao Địa danh Nam Sách huyệt giao toàn tài Qua ngày một ngày hai ấn định Đưa tổ về chính huyệt tang treo Rằng như sách dạy mang theo Đất này mãi mãi phát nhiều công khanh.
Thì ra nói đến họ Vũ Mộ Trạch người đầu tiên phải nhắc đến là ông Vũ Huy chứ không phải Vũ Hồn. Theo tư liệu của họ Vũ Việt Nam thì Vũ Huy người làng Mã Kỳ, huyện Long Khê, phủ Thường Châu, tỉnh Phúc Kiến. Ông Vũ Huy trước làm một chức quan phủ, sau ông cáo quan về hưu sớm, vốn tinh thông khoa địa lý phong thủy, vì vậy trên đường đi du ngoạn về phương Nam. Đến ấp Mạn Nhuế thuộc huyện Thanh Lâm đất Hồng Châu, nay là Thị trấn Nam Sách, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương, ông thấy một thế đất đẹp ở khu cánh đồng có 98 gò đất nhỏ bao quanh một gò cao và lớn, tựa như 98 ngôi sao chầu về mặt trời (cửu thập bát tú triều dương). Cái gò ấy dân địa phương gọi là Đống Dờm. Theo thuyết địa lý – phong thủy nếu mộ táng ở đây con cháu sẽ phát về khoa bảng, công danh hiển hách.
Ông Vũ Huy quay trở về Phúc Kiến đưa hài cốt thân phụ sang táng ở Đống Dờm, rồi làm nhà ở tạm để trông nom ngôi mộ.
Mộ tổ họ Vũ Võ Việt Nam nằm ở gò đất cao nhất trung tâm long huyệt là thành viên cục.
Thời gian này ông kết hôn với một thôn nữ người địa phương tên Nguyễn Thị Đức. Được hơn một năm, bà có thai, ông đưa bà trở về Phúc Kiến. Mùng Tám tháng Giêng năm Giáp Thân (804) bà sinh con trai. Ông bà đặt tên con là Vũ Hồn. Sau này lớn lên ông Vũ Hồn làm Lễ Bộ Tả Thị Lang dưới triều Đường Vũ Tôn, sau đó thăng làm Đô Đài Ngự Sử. Năm 841 ôngi được cử làm An Nam Kinh Lược Sứ thay Hàn Uớc.
Trong thời gian ở Việt Nam, Vũ Hồn đã đi kinh lý và xem xét nhiều nơi, đồng thời để tâm chú ý việc tìm địa điểm tốt vì ông đã muốn chọn quê ngoại để định cư sau này. ông đã nhiều lần về Mạn Nhuế thăm mộ ông nội ở Đống Dờm, sau đó đã đi thăm tất cả các vùng lân cận. Một lần đến trang Lạp Trạch huyện Đường An thấy về phía tây thôn ấy có cánh đồng hoang, cỏ lau rậm rạp, rải rác có những gò đống tựa 5 con ngựa, 7 ngôi sao ( ngũ mã tiền triều, thất tinh hậu ứng) hoặc những ao, mà dưới đáy có doi đất nổi lên như hình quả bút, nghiên mực, quyển sách… Theo khoa địa lý phong thủy, đấy là một kiểu đất đẹp rất tốt cho hậu thế của Trang Ấp này. Sau đó ông xin từ quan rồi chuyển cả gia đình về định cư ở Lạp Trạch lập ra Khả Mộ trang, đó là lý do tại sao làng này về sau có tên là làng Mộ Trạch.
Còn một điều cũng khá kỳ lạ nữa, cũng không biết giải thích thế nào. Ở trên có nói đến việc đất Nam Sách có rất nhiều gò đống nổi lên. Thực tế là đúng vậy, mọi người xem cái hình chụp này sẽ thấy.
Và tổ tiên ông bà cũng như những người trong họ tộc đằng nội nhà mình cũng được táng trên các gò đất như vậy. Mỗi lần về quê ra gò thắp hương cho ông bà mình đều leo từ cái gò cao này sang gò cao khác. Hồi nhỏ có lần bố mình chỉ cho mình một cái gò đất khá to nhưng lại không có một ngôi mộ nào cả và bảo “Đống kia gọi là đống thánh”, khi mình hỏi sao lại gọi thế thì bố mình trả lời là trước đây người ta cũng chôn người trên cái gò đó nhưng cứ được một thời gian thì quan tài tự động trồi lên, nhiều nhà bị như vậy nên về sau không ai dám chôn người ở đó nữa và nó có tên gọi như vậy. Mình nhìn xung quang thì quả đúng là thấy cái gò nào cũng có mộ mà mỗi gò đó thì không thật. Việc này rõ ràng là do người ta chứng lý bằng thực tế chứ không chỉ mù quáng tin như thế được, xong tại sao vùng này nhiều gò đống và quan tài tự trồi lên mà dùng các hoạt động địa chất của môn địa lý hiện đại thì mình cũng chưa biết câu trả lời thế nào? Trong khi môn phong thủy thì có lý giải gò đống đột khởi là do địa khí vận hành trong địa mạch tạo ra, và nơi có nhiều gò đống đột khởi chắc chắn có huyệt kết.
Đây là trang đầu tiên trong cuốn 左⿰氵幻眞傳地理 – Tả Ao chân truyền địa lý mình tìm được trên thư viện Hán Nôm quốc gia.
Hiện nay có ngôi đền thờ Tả Ao ở làng Nam Trì huyện Ân Thi Hưng Yên. Trên khắp toàn quốc chỉ có duy nhất nơi đây là thờ Tả Ao. Lý do là vì đây được xem như quê hương thứ 2 của Tả Ao, ông đã sống ở đây suốt 17 năm trời. Ông chọn nơi đây vì xưa Nam Trì vốn là một vùng ao hồ, sông nước và gò đống lô nhô, sơn thủy hữu tình, địa thế quan kỳ, có thế Phượng hoàng hàm thư, Long đỗ vĩ qui, tam giang giao hội, thuỷ tụ khê lưu (nghĩa là đất thế chim Phượng hoàng ngậm thư, rốn rồng đuôi rùa; nơi ngã ba sông, chín nhánh sông uốn khúc, nước tụ). Địa lý Nam Trì được mô tả như nội dung bức đại tự trong đền Nam Trì : Thiên Nam Trì Thuỷ Sơn Hà Đới – Địa Bảo Tàng Hương Bích Ngọc Khê – 天南池水山河帶-地寶藏鄉碧玉溪 (nghĩa là: Thiên nhiên Nam Trì sơn thủy sông nước bao quanh, đất đai hai khu Bảo Tàng, Ngọc Khê như bức tranh quê).
Theo ngọc phả và thần tích thờ tự đền Nam Trì thì khi Tả Ao giúp dân làng lập lại làng, chuyển chùa, đền thờ về phía Tây Nam; nhớ công ơn Tả Ao dân làng Nam Trì đã tôn Tả Ao là vị Bản cảnh Thành hoàng và thờ cùng tam vị Thượng đẳng phúc Thần từ đó đến nay. Hiện trong đền Nam Trì có câu đối của Tả Ao tả về địa lý, phong thuỷ làng Nam Trì: Tây lộ khê lưu kim tại hậu – Đông giang thuỷ tụ mộc cư tiền nghĩa là phía tây của đường làng có dòng nước chảy, phía sau của làng là hướng Tây Bắc . (nghĩa là phía Tây của làng có đường và dòng nước chảy, phía sau làng là hướng Tây – hành Kim – phía Đông làng có sông nước tụ, phía trước làng hướng Đông Nam – Nam hành Mộc). Rồi ông chọn hai gò đất ở phía Nam của làng để dựng đền
Tại Nam Trì có hai dòng họ có nhiều địa chủ lớn là họ Vũ và họ Đinh, thế nên mới có câu “họ Vũ làm đình, họ Đinh làm đền” để chỉ điều này. Thời gian ở đây Tả Ao được họ Đinh cung phụng hậu đãi rất tử tế nên ông đã tìm đất đặt mộ phần cho họ Đinh tại gò Tam Thai vượng về võ tướng. Đến năm Giáp Thìn niên hiệu Quảng Hòa thứ 4 (1544) đời Mạc Phúc Hải, người họ Đinh làng Nam Trì là Đinh Tú đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân và được bổ nhiệm làm quan Hiến Sát xứ Hải Dương, được phong tước Phù Nham Bá.
Hậu duệ đời thứ 3 của của Đinh Tú là Đinh Văn Tả khi đó đã chuyển sang sống ở làng Hàn ( Hàm Giang ) Hải Dương là một danh tướng vào loại bậc nhất thời Lê-Trịnh. Năm 1677 Đinh Văn Tả công giúp chúa Trinh tiêu diệt lực lượng của Mạc Kính Vũ-ông vua cuối cùng của nhà Mạc cát cứ tại Cao Bằng, và lập được rất nhiều công lao hãn mã khác ( có 2 con trai đều chết trận ) nên được nhà Lê Trịnh phong Thiếu uý Thái bảo Hùng quận công, ban Long triều tán tướng, miễn lễ khi vào chầu, ngoài ra còn được ban cho 300 mẫu ruộng lộc điền ở Hàm Giang con cháu đời đời thế tập. Ông được rất nhiều đặc ân dành cho một triều thần. Khi ông chết đích thân chúa Trinh Căn và vua Lê Ý Tông đến viếng và tổ chức lễ tang cho ông theo nghi thức quốc tang. Chúa Trịnh tặng ông câu đối:
Tiết việt quyền long triều túc tướng Phiên toàn trách trọng quốc nguyên huân
Từ đó về sau con cháu Đinh Văn Tả nối đời làm công hầu khanh tướng nhà Lê Trịnh cho mãi tới tận đời Hàm Xuyên Hầu Đinh Nhã Hành theo vua Lê Chiêu Thống lưu vong sang cầu viện nhà Thanh thì sự phú quý của dòng họ này mới chấm dứt.
Làng Hàn thời Đinh Văn Tả thuộc huyện Cẩm Giàng nhưng vật đổi sao dời, nay nó thuộc thành phố Hải Dương kéo dài từ phố Điện Biên Phủ tới tận phố Nguyễn An Ninh. Bà Ngoại mình họ Đinh, người làng Hàn con cháu của Đinh Văn Tả, đó cũng là lý do tại sao mà mình biết những thông tin về dòng họ này. Mặc dù quá trình đô thị hóa ở Hải Dương đã bắt đầu cách đây khoảng 2 chục năm nhưng mình nhớ ngày còn bé đến Tết chuẩn bị đi chúc tên họ hàng bên bà ngoại thì bố mẹ mình đều nói là “lên trên làng”, và nơi đó khá quen thuộc với mình. Hiện nay tại phố An Ninh Tp Hải Dương vẫn còn đền thờ Đinh Văn Tả.
Tuy nhiên có xin chia sẻ thêm với mọi người là trong quan điểm của những người nghiên cứu các môn huyền học phương Đông trên trong đó có địa lý phong thủy, trên tinh thần khoa học với nỗ lực “khoa học hóa” môn này để nó đi đến gần hơn với cái nhìn hiện đại thì có một cách lý giải đối với hiện tượng huyệt kết, mộ phát là họ cho rằng môi trường chúng ta đang sống tồn tại một dạng năng lượng hữu cơ mà theo ngôn ngữ cổ thì nó là địa khí, các địa khí này xuất phát từ các tổ sơn rồi chạy men theo hình sông thế núi là các long mạch, khi tụ lại thành huyệt kết. Còn xương cốt con người giống như những máy truyền phát sóng nên khi được táng vào các huyệt kết nó sẽ hấp thụ năng lượng hữu cơ kia và phát đi, sau này con cháu vốn là những người chung một huyết thống giống như các cột thu ăng ten thu sóng có thể hấp thụ dạng năng lượng hữu cơ kia vì họ có password là bộ mã DNA để truy cập được vào trường năng lượng đó. Đó là lý do tại sao mà người ta vẫn nói “Địa linh sinh nhân kiệt” và được xem như điều hiển nhiên không thấy ai phản đối.
Tất nhiên đây cũng chỉ là một giả thuyết, một cách lý giải mà thôi, cách lý giải ấy chưa được chứng minh bằng các công cụ phương tiện đo đạc chính xác. Song thực tế là có nhiều thứ hiện tại vẫn chưa đo đạc được tỉ dụ như hệ thống kinh lạc. Nếu đem giải phẫu cơ thể người ra thì thấy rất rõ các hệ cơ, hệ xương hệ tuần hoàn với các mạch máu soi chiếu bằng hình ảnh, song không tìm ra chỗ nào chưa các huyệt đạo và đường kinh như các sách về kinh lạc mô tả, trong khi lý thuyết về kinh lạc rất bài bản và có hệ thống, hơn nữa thực tế chữa bệnh hiệu quả của môn châm cứu cũng như công phu võ thuật mê hồn của các nhà sư Thiếu Lâm cũng như các cao thủ võ thuật làm cho người ta không thể phủ nhận được sự tồn tại của hệ thống kinh lạc và học thuyết kinh lạc.
Thật là hết sức nghịch lý, nhưng chúng ta vẫn sẽ còn tiếp tục sống chung với những nghịch lý như thế một thời gian dài dài nữa cho đến khi có những bước đột phá mới.
Cập nhật thông tin chi tiết về Dấu Tích Hai Nhà Phong Thủy Cao Biền trên website Globalink.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!