Xu Hướng 9/2023 # Thế Đất “Hậu Sinh Phát Đế” Phát Vương Nhiều Đời Cho Con Cháu Họ Trần # Top 13 Xem Nhiều | Globalink.edu.vn

Xu Hướng 9/2023 # Thế Đất “Hậu Sinh Phát Đế” Phát Vương Nhiều Đời Cho Con Cháu Họ Trần # Top 13 Xem Nhiều

Bạn đang xem bài viết Thế Đất “Hậu Sinh Phát Đế” Phát Vương Nhiều Đời Cho Con Cháu Họ Trần được cập nhật mới nhất tháng 9 năm 2023 trên website Globalink.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Thế đất “hậu sinh phát đế” phát vương nhiều đời cho con cháu họ Trần

✅ Phía trước gò ấy có 3 gò lớn là Tam thai, phía sau có 7 gò nhỏ là Thất tinh, xung quanh có đầm nước bao bọc, khi mặt trời soi tới thì mặt đầm sáng như gương phản chiếu, đối mặt với các cù lao nhỏ hình đẹp như những bông sen đang nở, đấy là một trong 27 kiểu đất hậu sinh phát đế”.

        Dân gian vẫn từng nói rằng: trước khi làm quan anh phải biết được mộ nhà anh đặt ở đâu, tổ tiên anh tích đức như thế nào. Ngày nay cũng vậy, câu nói đó dù hiểu theo phương diện huyền bí hay thực tế thì nó vẫn luôn luôn đúng.Tổ tiên có công đức, tích tụ công đức……nuôi dạy con cháu có tốt thì mới có ngày hiển vinh.

    

 

Thái Đường Lăng (Hưng Hà – Thái Bình) là nơi an nghỉ vĩnh hằng của các vị vua đầu triều Trần: Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông. Các hoàng hậu sau khi qua đời đều được quy về hợp táng tại các lăng mộ Thọ Lăng, Chiêu Lăng, Dự Lăng, Quy Đức Lăng.

        Vậy nên ở Việt Nam chúng ta, các dòng họ đều răn dạy con cháu với câu đối: “tổ tông công đức thiên niên thịnh – tử hiếu tôn hiền vạn đại vinh”. Lịch sử nhà Trần là một minh chứng cho điều đó.Sự phát tích của nhà Trần  trong lịch sử phong kiến kiến Việt Nam luôn luôn là một đề tài tốn rất nhiều giấy mực của các bậc trí giả. Cũng như các triều đại khác của lịch sử Việt Nam, khi phát tích đều mang những yếu tố liêu trai. Sử sách mà lịch sử ghi lại về nhà Trần cho đến nay vẫn còn nhiều điểm mang tính chất huyền bí, do ảnh hưởng bởi những truyền thuyết dân gian. Do vậy, sự phát tích và phát triển đến cực thịnh, rực rỡ của nha Tran vẫn là một đề tài hấp dẫn mà những nhà nghiên cứu đam mê bí ẩn về phong thủy đang đi tìm lời giải đáp.

Đền thờ các Vua Trần tại Hưng Hà – Thái Bình

 

        Lịch sử phát triển rực rỡ của nhà Trần:         Người đặt nền móng đầu tiên cho sự phát triển rực rỡ của nhà Trần chính là Trần Tự Khánh, người đã có công tập hợp lực lượng, đánh dẹp các xứ quân nổi loạn và hình thành lên thế lực cho họ Trần trong triều đình nhà Lý.Người trực tiếp gây dựng lên cơ nghiệp trăm năm rực sáng cho họ Trần và ảnh hưởng tới cục diện, sức mạnh của nhà nước Đại Việt khi đó lại chính là Thái sư Trần Thủ Độ. Ông là người đã ra sức ép buộc Huệ Tông bỏ ngôi lên làm Thái thượng hoàng, nhường ngôi cho Chiêu Thánh công chúa khi đó mới 7 tuổi, tức là Lý Chiêu Hoàng. Để đoạt hẳn ngôi báu về tay họ Trần, Trần Thủ Độ tìm cách đưa con của anh thứ Trần Thừa là Trần Cảnh, mới 8 tuổi, vào hầu Lý Chiêu Hoàng, rồi dàn xếp để Trần Cảnh lấy Lý Chiêu Hoàng và nhường ngôi để chuyển ngai vàng sang họ Trần vào cuối năm 1225. Thượng hoàng Huệ Tông đi tu, truất làm Huệ Quang đại sư, Trần Cảnh lên ngôi tức Thái Tông hoàng đế của triều Trần. Năm 1226 nhà Trần được thành lập và trải qua 12 đời vua với 175 năm trị vì (tính từ đời vua Trần Thái Tông đến vua Trần Thiếu Đế)

        Ngôi “mộ tổ” họ Trần được chôn cất đúng vào long mạch và kết phát mạnh mẽ nên con cháu  

Giai Thoại Phong Thủy Kể Về Dòng Họ Trần Phát 12 Đời Đế Vương

Lịch sử Việt Nam khi nhắc đến hào khí Đông A ai ai máu củng phải sôi sục lên vì hào khí dân tộc, vì thời bấy giờ dòng máu con rồng cháu tiên có quá nhiều người giỏi, quá nhiều hào kiệt.

Triều đại nhà Trần ! Một triều đại rực rỡ nhất, hùng mạnh nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Ba lần đánh thắng quân Mông Nguyên mà cả thế giới đều ngã mũ xin hàng. Kinh tế đất nước giàu mạnh, thịnh vượng đáng để tự hào.

Đằng sau sự phát tích đế vương hùng mạnh đó là cả một câu chuyện ly kỳ.

Mộ tổ của nhà họ Trần được táng trên một đại huyệt thuộc lưu vực sông Phổ Đà (tức sông Luộc) và nằm trên địa phận thôn Lưu Gia (thuộc huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình ngày nay). Đó là một ngôi đất quý phát đế vương 12 đời !

Truyền thuyết kể lại rằng vào thời điểm đó trên thôn Lưu Gia có hai dòng họ nổi tiếng nhất sinh sống ở đây là họ Lý và họ Tô, còn họ Trần mãi sau này mới đến định cư và kết giao được với họ Tô thông qua đám cưới giữa Trần Lý với người con gái họ Tô.

Giai thoại dân gian truyền tai nhau rằng: Trần Lý có một người bạn vốn là một thầy địa lý rất giỏi, được dân chúng gọi là thầy Phùng. Vốn là một người sành sỏi trong nghề, lại thường xuyên đi khắp nơi tìm đất đặt mộ, một lần thầy Phùng đến thôn Lưu Gia thăm Trần Lý thì biết ở thôn Lưu Gia này có ngôi huyệt quý.

Ngôi huyệt quý đó được mô tả như sau: “Tổ sơn bắt nguồn từ đoạn giao giữa ba ngọn núi chồng lên nhau, lấy Tam Đảo làm gốc rồi cùng với ba ngọn Phù Nghĩa, Thạch Bàn, Thiên Thị chụm lại.

Long mạch của nó chạy theo hướng Đông Bắc -Tây Nam, thấp dần rồi chìm qua sông Thiên Đức (tức sông Đuống), đến làng Hà Liễu của châu Đằng (hiện chưa rõ địa điểm này ở đâu) mới đột khởi nổi lên một ngọn núi khác.

Rồi từ đấy, long mạch lại chạy tiếp từ làng Nhật Cảo đến làng Thái Đường (xã Thái Đường, huyện Hưng Hà, Thái Bình ngày nay) và kết lại ở gò Sao.

Phía trước gò ấy có 3 gò lớn là Tam thai, phía sau có 7 gò nhỏ là Thất tinh, xung quanh có đầm nước bao bọc, khi mặt trời soi tới thì mặt đầm sáng như gương phản chiếu, đối mặt với các cù lao nhỏ hình đẹp như những bông sen đang nở, đấy là một trong 27 kiểu đất hậu sinh phát đế”.

Nghe theo lời thầy Phùng, vào một ngày lập thu, Trần Lý dời mộ tổ từ Tức Mặc (Nam Định) về táng tại gò Sao, công việc hoàn tất đúng chính giờ Hợi (tức 22h đêm).

Xong xuôi, trên mộ được san phẳng y như cũ để không lộ ra dấu vết. Chính vì được mộ tổ họ Trần được chôn cất vào thế đất “hậu sinh phát đế” nên sau đó con cháu nhà Trần cứ thế phát vương và thay nhau nắm giữ thiên hạ hoặc làm quan trong triều.

Họ Trần bắt đầu phát đế vương.

Lý Long Trát được nối ngôi vua nhà Lý hiệu là Lý Cao tông. Lý Cao tông chơi bời vô độ, không quan tâm chính sự, đất nước đói kém, cướp bóc như ong, các bè đảng nổi lên chiếm cứ các vùng tìm cách cướp ngôi vua.

Vua phải chạy loạn trốn lên vùng Quy Hóa (vùng núi tỉnh Phú Thọ ngày nay), còn thái tử Sảm con vua thì chạy về Hải ấp (nay là Lưu Xá, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình).

Thái tử Sảm được Trần Lý cứu sống và giúp dành lại ngôi vua, dữ vững giang sơn đất nước. Thái tử Sảm thấy Trần Thị Dung, con gái Trần Lý có nhan sắc bèn lấy làm vợ, phong cho Trần Lý tước Minh Tự, phong cho Tô Trung Tử, em vợ Trần Lý làm Điện tiền chỉ huy sứ.

Cha con Trần Lý, Trần Thừa, Trần Tự Khánh đều hết lòng thờ vua nhà Lý. Thái tử Sảm nối ngôi cha, hiệu là Lý Huệ Tông.

Lý Huệ tông không có con trai. lại bị bệnh tâm thần nên truyền ngôi cho con gái là Lý Phật Kim, thường gọi là Lý Chiêu Thánh hiệu là Lý Chiêu Hoàng. Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh. Triều đại nhà Trần bắt đầu phát đế vương từ đây, và càng ngày càng hùng mạnh.

Triều đại đế vương nhà Trần phát 12 đời. Đến đời thứ 12 là vua Trần Thiếu Đế thì suy tàn. Trần Thiếu Đế bị ông ngoại là Hồ Quý Ly ép nhường ngôi. Nhà Trần Kết thúc.

………………………………………………………………………………………………..

Hotline – Zalo – Viber: 0907.6555.08

Vùng Đất Phát Đế Vương Nổi Tiếng Việt Nam

Nói đến đất Đế Vương phải nói đến vùng đất Thanh Hóa và Cao Bằng, nếu Thanh Hóa được xem là “đất vua, nhà chúa” hay “Đế vương chung hội” bởi rất nhiều vua và chúa trong lịch sử đều phát tích từ vùng đất này, thì Cao Bằng là nơi Đế Vương ẩn náu.

Những nhân vật xuất thân nhờ “đất vua” này có thể kể đến như Bà Triệu (huyện Yên Định, Thanh Hóa), “vua không ngai” Dương Đình Nghệ (huyện Thiệu Hóa, Thanh Hóa), Lê Hoàn (tức vua Lê Đại Hành), Hồ Quý Ly (Đại Lai, Thanh Hóa), Lê Lợi, nhà Nguyễn (Hà Trung, Thanh Hóa), chúa Trịnh.

Đỉnh Ngàn Nưa linh thiêng

Núi Nưa là dãy núi đi qua 3 huyện Triệu Sơn, Nông Cống, Như Thanh thuộc tỉnh Thanh Hóa.

Sách Đại Nam nhất thống chí có chép rằng: “Núi Nưa tên chữ là Na Sơn, mạch núi từ Phủ Thọ Xuân kéo đến chạy dài vài ba mươi dặm, đến địa phận Tổng Cổ Định thì nối vọi lên nhiều ngọn, ngọn cao nhất là núi Nưa”.

Theo tài liệu khoa học, quần thể Núi Nưa có mạch núi bắt nguồn từ dải Trường Sơn, vươn về phía biển theo hướng Tây Bắc – Đông Nam; có hàng ngàn ngọn núi lớn nhỏ trùng điệp phân bổ đều khắp trên diện tích 55 km2, xung quanh là 99 ngọn núi tựa như voi phục chầu về đỉnh, nên người dân gọi là Ngàn Nưa.

Trên đỉnh núi cao nhất Ngàn Nưa, có sơn cao thủy tụ, là nơi linh khí thiêng giữa Trời – Đất hội tụ, giao hòa. Nơi đây vào năm 248 Bà Triệu cùng hàng ngàn tráng sĩ Cửu Chân mài gươm luyện võ chống lại ách đô hộ của quân Ngô, nơi đây chính là căn cứ đầu tiên của cuộc khởi nghĩa Bà Triệu.

Nhiều ẩn sĩ, danh nhân từ xưa đến nay đều có viết về ngọn núi này, trong dân gian vẫn lưu truyền câu: “Na Sơn nhất phiến, nhất hộ thiên hạ biến!” nghĩa là “một tiếng hô ở núi Nưa chuyển cả thiên hạ!”.

Đây được xem là nơi phát tích của triều đại nhà Lê, trong cuốn “Đại Việt sử ký toàn thư” có mô tả rằng: Ông tổ ba đời của vua Lê Lợi tên húy là Hối, một hôm đi dạo chơi đến vùng núi Lam Sơn chợt thấy có đàn chim đông đúc đang bay lượn như thể núi Lam Sơn có một lực thu hút vô hình, có sức thu phục nhân tâm nhiều như chim về tổ, bèn nói: “đây hẳn là chỗ đất tốt” và quyết định “dời nhà đến ở đấy”.

Người Việt có câu “đất lành chim đậu”, hình ảnh đàn chim đông đúc bay lượn dấu hiệu vùng đất lành. Sau khi cụ Hối dời nhà về Lam Sơn thì 3 năm sau đã gây dựng được sản nghiệp lớn và làm quận trưởng một phương, trong nhà có cả ngàn gia đinh.

Đến lúc Lê Lợi được sinh ra đã “thiên tư tuấn tú khác thường, thần sắc tinh anh kỳ vĩ, mắt sáng, miệng rộng, mũi cao, trên vai có nốt ruồi son, tiếng nói như chuông, dáng đi tựa rồng, bước tới như hổ, kẻ thức giả đều biết vua là bậc phi thường” ( Đại Việt sử ký toàn thư).

Lê Lợi được một nhân vật kỳ bí cho biết huyệt đất phát vương ở Chiêu Nghi, điều này được ghi chép lại trong cuốn “Lam Sơn thực lục” như sau:

“Khi ấy nhà vua (tức Lê Lợi) sai người nhà cày ruộng ở xứ Phật Hoàng động Chiêu Nghi. Chợt thấy một nhà sư già, mặc áo trắng, từ thôn Đức Tề đi ra, thở dài mà rằng:

– Quý hoá thay phiến đất này! Không có ai đáng dặn!

Người nhà thấy thế, chạy về thưa rõ với nhà vua, nhà vua liền đuổi theo tìm hỏi chuyện đó. Có người báo rằng:

Nhà vua vội đi theo đến trại Quần Đội, huyện Cổ lôi, (tức huyện Lôi Dương ngày nay) thấy một cái thẻ tre, đề chữ rằng:

Thiên đức thụ mệnh. Tuế trung tứ thập. Số chi dĩ định. Tích tai vị cập.

Đức trời chịu mệnh. Tuổi giữa bốn mươi! Số kia đã định. Chưa tới … tiếc thay!

Nhà vua thấy chữ đề mừng lắm, lại vội vàng đi theo. Khi ấy có rồng vàng che cho nhà vua! Bỗng nhà sư bảo nhà vua rằng:

– Tôi từ bên Lào xuống đây, họ Trịnh, tên là sư núi Đá trắng. Hôm thấy ông khí tượng khác thường tất có thể làm nên việc lớn!

Nhà vua quỳ xuống thưa rằng:

– Mạch đất ở miền đệ tử, tôi sang hèn ra thế nào xin thầy bảo rõ cho?

– Xứ Phật hoàng thuộc động Chiêu Nghi, có một khu đất chừng nửa sào, hình như quả quốc ấn. Phía tả có núi Thái Thất, núi Chí Linh (ở miền Lảo Mang); bên trong có đồi đất Bạn Tiên. Lấy Thiên Sơn làm án (ở xã An Khoái). Phía trước có nước Long Sơn, bên trong có nước Long Hồ là chỗ xoáy trôn ốc (ở thôn Như Ứng). Phía hữu nước vòng quanh tay Hổ. Bên ngoài núi xâu chuỗi hạt trai.

Con trai sang không thể nói được nhưng con gái phiền có chuyện thất tiết. Tôi sợ con cháu ông về sau, có thế phân cư. Ngôi vua có lúc Trung Hưng. Mệnh trời có thể biết vậy. Nếu thầy giỏi biết láng lại, thì trung hưng được năm trăm năm.

Nhà sư nói rồi, nhà vua liền đem di cốt đức Hoàng khảo táng vào chỗ ấy. Tới giờ Dần, về đến thôn Hạ Dao Xá nhà sư bèn hóa bay lên trời! Nhân lập chỗ ấy làm điện Du Tiên. Còn động Chiêu Nghi thì làm am nhỏ (tức là nơi một Phật hoàng). Đó là gốc của sự phát tích vậy”.

Về sự việc này Lê Qúy Đôn có viết ngắn gọn trong “Đại Việt thông sử” rằng: “Khi vua làm phụ đạo ở Khả Lam, được hồn sư ông mặc áo trắng hiển hiện chỉ cho ngôi huyệt phát đế vương ở động Chiêu Nghi”.

Lê Lợi đưa thi hài của cha chôn vào đất này. Sau này khi Lê Lợi khởi binh chống lại quân Minh, nhưng bị một người chỉ điểm cho quân Minh biết ngôi mộ này, quân Minh sai người khai quật lên nhằm ép Lê Lợi đầu hàng.

Lê Lợi sai 14 thuộc hạ thân tín là Trịnh Khả, Bùi Bị. Trương Lôi, Lê Nanh, Võ Uy, Bùi Quốc Hưng, Doãn Nỗ, Lê Liễu, Lê Nhữ Lãm, Lê Khả Lãng, Lê Xa Lôi, Trịnh Võ, Lưu Trung và Trần Dĩ đi đến doanh trại của giặc lấy lại hài cốt của cha mình. Những người này đội cỏ bơi xuôi theo dòng nước, từ thượng lưu xuống, nhân lúc giặc Minh sơ hở đã lấy trộm lại được hài cốt. Lê Lợi bèn chôn lại như cũ.

Sau 10 năm nổi dậy chống quân Minh, năm 1428 Lê Lợi lên ngôi Vua lập ra nhà hậu Lê. Kéo dài đến năm 1789. Sau này dù đến đời chúa nào, hay các cuộc khởi nghĩa nổ ra thì hầu hết đều mang danh “phò Lê” để danh chính ngôn thuận mà lấy lòng thiên hạ.

Nằm ở phía nam sông Mã , Dãy núi Đông Sơn – Hàm Rồng bắt nguồn từ làng Dương Xá huyện Thiệu Hóa chạy men theo sông Mã uốn lượn thành 99 ngọn núi hình rồng. Phần cuối nhô lên một ngọn tựa như đầu rồng nên gọi là Hàm Rồng, ở đó có động Long Quang (mắt rồng), núi sát bờ sông, trên bờ có mỏm đá dô ra như hình mũi rồng, cho nên gọi là Long tị.

Sách “Đại Nam nhất thống chí” ghi chép địa thế nơi đây là ” “A núi này cao và đẹp trông ra sông Định Minh, lên cao trông xa thấy nước trời một màu sắc thật là giai cảnh”.

Từ đuôi Rồng đi lên, ngọn Ngũ Hoa Phong hình năm bông sen chụm chung một gốc cắm xuống đầm lầy. Ngọn Phù Thi Sơn trông giống một người phụ nữ đang nằm ngủ đầu gối vào thân rồng, núi mẹ, núi con tròn như quả trứng. Ngọn Tả Ao trông giống người đàn ông đang nằm vắt chân chữ ngũ, đầu quay về hướng Đông. Ở sát cạnh ngọn con Mèo đang trong tư thế rình mồi, núi Cánh Tiên có 3 ngọn vút lên cao tạo thành mỏm Ba Hiệu, rồi núi Con Cá, Con Phượng, núi Đồng Thông, núi con Voi…

Tương truyền khi Cao Biền đi qua Hàm Rồng thấy đất nơi đây rất quý, có thể phát Vương, liền đưa hài cốt của cha chôn vào huyệt Hàm Rồng mong sẽ phát Vương ở phương nam.

Thế nhưng xương cốt cứ bị huyệt núi đùn ra, không nhận, dù đã cố đưa vào nhưng vẫn bị đùn ra như thế. Cao Biền biết đây là long mạch rất mạnh nên càng quý, vì thế mà quyết làm đến cùng, nên tán xương nhỏ để tung vào sườn núi. Nhưng vừa tung lên thì có muôn vàn con chim nhỏ cùng bay lên vỗ cánh vù vù làm xương cốt bay tứ tán. Cao Biền chỉ còn biết than linh khí nước nam quá mạnh và linh thiêng, không thể cưỡng cầu

Cao Bằng: Vùng đất Đế Vương ẩn náu

Nếu Thanh Hóa được xem là vùng đất phát tích của Vua, Chúa, thì Cao Bằng được xem là nơi Đế Vương ẩn náu.

Thời nhà mạc, khi vận nước rối bời, vua Mạc Mậu Hợp đến hỏi Nguyễn Bỉnh Khiêm về thế cuộc, Trạnh Trình đã đáp rằng “Ngày sau nước có việc, đất Cao Bằng tuy nhỏ, cũng giữ được phúc đến vài đời”. 7 năm sau vua Mạc bị quân Trịnh đánh bật khỏi Thăng Long, nhớ lời dặn cụ Trạng liền về đất Cao Bằng, quả nhiên giữ thêm được 96 năm nữa.

Từ đó Cao Bằng được xem là đất dung thân, ẩn náu của các bậc Đế Vương. Xưa kia khi Cao Biền được lệnh trấn yểm các vùng đất quý của nước Việt, đã xây thành Đại La (tức Thăng Long sau này) và thành Nà Lữ ở Cao Bằng. Sau này người Việt đã tìm cách hóa giải cách trấn yểm của Cao Biền, Đến nay di tích thành Nà Lữ vẫn còn ở làng Nà Lữ, xã Hoàng Tung, huyện Hòa An. Khi nhà Mạc chạy về Cao Bằng đã chiếm Nà Lữ và xây thành đá trên núi để phòng ngự

Năm 1052 thủ lĩnh người Tráng (người Tày, Nùng) ở Cao Bằng là Nùng Trí Cao tự xưng là Nhân Huệ Hoàng Đế, đặt quốc hiệu là Đại Nam đưa quân sang tấn công bên đất Tống.

Đến nay Cao Bằng được xem là nơi “tụ khí tàng phong” rất tốt đẹp cùng nhiều danh lam thắng như thác Bản Giốc, thác Nặm Trá, núi Mắt Thần tạo ra nhiều sinh khí cho vùng đất này.

Hai Vùng Đất Phát Đế Vương Nổi Tiếng Việt Nam

Ở Việt Nam, nói đến đất đế vương thì phải kể tới vùng đất Thanh Hóa và Cao Bằng. Nếu Thanh Hóa được xem là đất “đế vương chung hội” bởi rất nhiều vua chúa trong lịch sử đều phát tích từ vùng đất này; thì Cao Bằng được xem là đất “đế vương dung thân”, có thể giúp vua giữ gìn phúc khí, cũng có thể sinh ra bậc vương giả.

Đất “đế vương chung hội”

Những nhân vật lịch sử kiệt xuất xuất thân ở Thanh Hóa có thể kể đến như: Bà Triệu (huyện Yên Định, Thanh Hóa), Tiết độ sứ Dương Đình Nghệ (Ái Châu, Thanh Hóa), Lê Đại Hành[1] (Ái Châu, Thanh Hóa), Hồ Quý Ly (Đại Lai, Thanh Hóa), Lê Thái Tổ (làng Chủ Sơn, Thanh Hóa), Hoàng tộc Nguyễn (Hà Trung, Thanh Hóa), Chúa Trịnh Kiểm (huyện Vĩnh Lộc, Thanh Hóa)…

Đỉnh Ngàn Nưa

Núi Nưa là dãy núi đi qua 3 huyện Triệu Sơn, Nông Cống, Như Thanh thuộc tỉnh Thanh Hóa. Sách Đại Nam nhất thống chí có chép rằng: “Núi Nưa tên chữ là Na Sơn, mạch núi từ Phủ Thọ Xuân kéo đến chạy dài vài ba mươi dặm, đến địa phận Tổng Cổ Định thì nối vọi lên nhiều ngọn, ngọn cao nhất là núi Nưa.”

Theo tài liệu khoa học, quần thể Núi Nưa có mạch núi bắt nguồn từ dải Trường Sơn, vươn về phía biển theo hướng Tây Bắc – Đông Nam; có hàng ngàn ngọn núi lớn nhỏ trùng điệp phân bổ đều khắp trên diện tích 55 km 2, xung quanh là 99 ngọn núi tựa như voi phục chầu về đỉnh, nên người dân gọi là Ngàn Nưa. Trên đỉnh núi cao nhất Ngàn Nưa, có sơn cao thủy tụ, là nơi linh khí thiêng giữa Trời – Đất hội tụ, giao hòa.

Tại núi Nưa vào năm 248, Bà Triệu cùng hàng ngàn tráng sĩ Cửu Chân mài gươm luyện võ chống lại ách đô hộ của quân Ngô. Núi Nưa chính là căn cứ đầu tiên của cuộc khởi nghĩa Bà Triệu.

Nhiều ẩn sĩ, danh nhân từ xưa đến nay đều có viết về ngọn núi này, trong dân gian vẫn lưu truyền câu: “Na Sơn nhất phiến, nhất hộ thiên hạ biến!” nghĩa là “một tiếng hô ở núi Nưa chuyển cả thiên hạ!” (Xem bài: Múa giáo đánh hổ dễ, đối mặt vua Bà khó)

Vùng núi Lam Sơn

Vùng núi Lam Sơn được xem là nơi phát tích của triều đại nhà Lê. Trong cuốn “Đại Việt sử ký toàn thư” có mô tả rằng: Ông tổ ba đời của vua Lê Lợi tên húy là Hối, một hôm đi dạo chơi đến vùng núi Lam Sơn chợt thấy có đàn chim đông đúc đang bay lượn như thể núi Lam Sơn có một lực thu hút vô hình, có sức thu phục nhân tâm nhiều như chim về tổ, bèn nói: “đây hẳn là chỗ đất tốt” và quyết định “dời nhà đến ở đấy”.

Người Việt có câu “đất lành chim đậu”, hình ảnh đàn chim đông đúc bay lượn dấu hiệu vùng đất lành. Sau khi cụ Hối dời nhà về Lam Sơn thì 3 năm sau đã gây dựng được sản nghiệp lớn và làm quận trưởng một phương, trong nhà có cả ngàn gia đinh.

Đến lúc Lê Lợi được sinh ra đã “thiên tư tuấn tú khác thường, thần sắc tinh anh kỳ vĩ, mắt sáng, miệng rộng, mũi cao, trên vai có nốt ruồi son, tiếng nói như chuông, dáng đi tựa rồng, bước tới như hổ, kẻ thức giả đều biết vua là bậc phi thường” (Đại Việt sử ký toàn thư).

Lê Lợi được một nhân vật kỳ bí cho biết huyệt đất phát vương ở Chiêu Nghi, điều này được ghi chép lại trong cuốn “Lam Sơn thực lục” như sau:

Khi ấy nhà vua (tức Lê Lợi) sai người nhà cày ruộng ở xứ Phật Hoàng động Chiêu Nghi. Chợt thấy một nhà sư già, mặc áo trắng, từ thôn Đức Tề đi ra, thở dài mà rằng: – Quý hoá thay phiến đất này! Không có ai đáng dặn! Người nhà thấy thế, chạy về thưa rõ với nhà vua, nhà vua liền đuổi theo tìm hỏi chuyện đó. Có người báo rằng: – Sư già đã đi xa rồi. Nhà vua vội đi theo đến trại Quần Đội, huyện Cổ lôi, (tức huyện Lôi Dương ngày nay) thấy một cái thẻ tre, đề chữ rằng: “Thiên đức thụ mệnh. Tuế trung tứ thập. Số chi dĩ định. Tích tai vị cập”. “Đức trời chịu mệnh. Tuổi giữa bốn mươi! Số kia đã định. Chưa tới … tiếc thay!” Nhà vua thấy chữ đề mừng lắm, lại vội vàng đi theo. Khi ấy có rồng vàng che cho nhà vua! Bỗng nhà sư bảo nhà vua rằng: – Tôi từ bên Lào xuống đây, họ Trịnh, tên là sư núi Đá trắng. Hôm thấy ông khí tượng khác thường tất có thể làm nên việc lớn! Nhà vua quỳ xuống thưa rằng: – Mạch đất ở miền đệ tử, tôi sang hèn ra thế nào xin thầy bảo rõ cho? – Xứ Phật hoàng thuộc động Chiêu Nghi, có một khu đất chừng nửa sào, hình như quả quốc ấn. Phía tả có núi Thái Thất, núi Chí Linh (ở miền Lảo Mang); bên trong có đồi đất Bạn Tiên. Lấy Thiên Sơn làm án (ở xã An Khoái). Phía trước có nước Long Sơn, bên trong có nước Long Hồ là chỗ xoáy trôn ốc (ở thôn Như Ứng). Phía hữu nước vòng quanh tay Hổ. Bên ngoài núi xâu chuỗi hạt trai. Con trai sang không thể nói được nhưng con gái phiền có chuyện thất tiết. Tôi sợ con cháu ông về sau, có thế phân cư. Ngôi vua có lúc Trung Hưng. Mệnh trời có thể biết vậy. Nếu thầy giỏi biết láng lại, thì trung hưng được năm trăm năm. Nhà sư nói rồi, nhà vua liền đem di cốt đức Hoàng khảo táng vào chỗ ấy. Tới giờ Dần, về đến thôn Hạ Dao Xá nhà sư bèn hóa bay lên trời! Nhân lập chỗ ấy làm điện Du Tiên. Còn động Chiêu Nghi thì làm am nhỏ (tức là nơi một Phật hoàng). Đó là gốc của sự phát tích vậy.

Về sự việc này Lê Quý Đôn có viết ngắn gọn trong “Đại Việt thông sử” rằng: “Khi vua làm phụ đạo ở Khả Lam, được hồn sư ông mặc áo trắng hiển hiện chỉ cho ngôi huyệt phát đế vương ở động Chiêu Nghi”.

Lê Lợi đưa thi hài của cha chôn vào đất này. Sau này khi Lê Lợi khởi binh chống lại quân Minh, nhưng bị một người chỉ điểm cho quân Minh biết ngôi mộ này, quân Minh sai người khai quật lên nhằm ép Lê Lợi đầu hàng.

Lê Lợi sai 14 thuộc hạ thân tín là Trịnh Khả, Bùi Bị, Trương Lôi, Lê Nanh, Võ Uy, Bùi Quốc Hưng, Doãn Nỗ, Lê Liễu, Lê Nhữ Lãm, Lê Khả Lãng, Lê Xa Lôi, Trịnh Võ, Lưu Trung và Trần Dĩ đi đến doanh trại của giặc lấy lại hài cốt của cha mình. Những người này đội cỏ bơi xuôi theo dòng nước, từ thượng lưu xuống, nhân lúc giặc Minh sơ hở đã lấy trộm lại được hài cốt. Lê Lợi bèn chôn lại như cũ.

Sau 10 năm nổi dậy chống quân Minh, năm 1428 Lê Lợi lên ngôi vua lập ra nhà hậu Lê. Kéo dài đến năm 1789. Sau này dù đến đời chúa nào, hay các cuộc khởi nghĩa nổ ra thì hầu hết đều mang danh “phò Lê” để danh chính ngôn thuận mà lấy lòng thiên hạ.

Hàm Rồng

Nằm ở phía nam sông Mã , Dãy núi Đông Sơn – Hàm Rồng bắt nguồn từ làng Dương Xá huyện Thiệu Hóa chạy men theo sông Mã uốn lượn thành 99 ngọn núi hình rồng. Phần cuối nhô lên một ngọn tựa như đầu rồng nên gọi là Hàm Rồng, ở đó có động Long Quang (mắt rồng), núi sát bờ sông, trên bờ có mỏm đá nhô ra như hình mũi rồng, cho nên gọi là Long tị.

Sách “Đại Nam nhất thống chí” ghi chép địa thế nơi đây là: “núi này cao và đẹp trông ra sông Định Minh, lên cao trông xa thấy nước trời một màu sắc thật là giai cảnh”.

Từ đuôi Rồng đi lên, ngọn Ngũ Hoa Phong hình năm bông sen chụm chung một gốc cắm xuống đầm lầy. Ngọn Phù Thi Sơn trông giống một người phụ nữ đang nằm ngủ đầu gối vào thân rồng, núi mẹ, núi con tròn như quả trứng. Ngọn Tả Ao trông giống người đàn ông đang nằm vắt chân chữ ngũ, đầu quay về hướng Đông. Ở sát cạnh ngọn con Mèo đang trong tư thế rình mồi, núi Cánh Tiên có 3 ngọn vút lên cao tạo thành mỏm Ba Hiệu, rồi núi Con Cá, Con Phượng, núi Đồng Thông, núi Con Voi…

Tương truyền khi Cao Biền đi qua Hàm Rồng thấy đất nơi đây rất quý, có thể phát vương, liền đưa hài cốt của cha chôn vào huyệt Hàm Rồng mong sẽ phát vương ở phương nam. Thế nhưng xương cốt cứ bị huyệt núi đùn ra, không nhận, dù đã cố đưa vào nhưng vẫn bị đùn ra như thế.

Cao Biền biết đây là long mạch rất mạnh nên càng quý, vì thế mà quyết làm đến cùng, nên tán xương nhỏ để tung vào sườn núi. Nhưng vừa tung lên thì có muôn vàn con chim nhỏ cùng bay lên vỗ cánh vù vù làm xương cốt bay tứ tán. Cao Biền chỉ còn biết than linh khí nước Nam quá mạnh và linh thiêng, không thể cưỡng cầu.

Đất “đế vương dung thân”

Nếu Thanh Hóa được xem là vùng đất phát tích của vua chúa, thì Cao Bằng được xem là nơi đế vương dung thân, ẩn náu.

Thời nhà Mạc, khi vận nước rối bời, vua Mạc Mậu Hợp đến hỏi Nguyễn Bỉnh Khiêm về thế cuộc, Trạnh Trình đã đáp rằng: “Ngày sau nước có việc, đất Cao Bằng tuy nhỏ, cũng giữ được phúc đến vài đời”.

7 năm sau, vua Mạc bị quân Trịnh đánh bật khỏi Thăng Long. Vua nhớ lời dặn của cụ Trạng, liền về đất Cao Bằng, quả nhiên giữ thêm được 96 năm nữa.

Từ đó Cao Bằng được xem là đất dung thân, ẩn náu của các bậc đế vương.

Xưa kia khi Cao Biền được lệnh trấn yểm các vùng đất quý của nước Việt, đã xây thành Đại La – tiền thân của thành Thăng Long ở Hà Nội sau này, và thành Nà Lữ ở Cao Bằng. Về sau người Việt đã tìm cách hóa giải cách trấn yểm của Cao Biền. (Xem bài: Chuyện thiền sư Việt phá giải thuật phong thủy của Cao Biền)

Đến nay di tích thành Nà Lữ vẫn còn ở làng Nà Lữ, xã Hoàng Tung, huyện Hòa An. Khi nhà Mạc chạy về Cao Bằng đã chiếm Nà Lữ và xây thành đá trên núi để phòng ngự.

Năm 1052 thủ lĩnh người Tráng (người Tày, Nùng) ở Cao Bằng là Nùng Trí Cao tự xưng là Nhân Huệ Hoàng Đế, đặt quốc hiệu là Đại Nam và đưa quân sang tấn công bên đất Tống.

Mặc dù Nùng Trí Cao chỉ được xem là đế vương của người dân tộc Tày – Nùng, nổi lên đòi tự trị giữa Đại Tống và Đại Cồ Việt thời nhà Lý, nhưng dẫu sao đi nữa, ông cũng là một minh chứng cho sự linh thiêng của vùng đất Cao Bằng. (Xem bài: Đại Cồ Việt vuột mất cơ hội tiến sang đánh chiếm Trung Quốc vào phút cuối như thế nào)

Đến nay, Cao Bằng được xem là nơi “tụ khí tàng phong” rất tốt đẹp với nhiều danh lam thắng như thác Bản Giốc, thác Nặm Trá, núi Mắt Thần, tạo ra nhiều sinh khí cho vùng đất này.

Chú thích:

Phong Thủy Qua Các Đời Vua Việt Nam – Bài 2: Đất Phát Vương Của Nhà Trần

“Tả Ao địa lý toàn thư” ghi rõ muốn tầm long cần phải biết: Thái tổ sơn của toàn thể các cuộc đất xuất phát từ dãy Himalaya, phải biết Minh đường là nơi nước tụ trước huyệt để nuôi khí lành, biết Thanh long là thớ đất bên trái huyệt và Bạch hổ là thớ đất bên phải huyệt, cả hai ôm chầu vào huyệt kết, biết về long sinh (mạch sống động như mãng xà vương đang phóng tới), long tử (mạch nằm ngay đơ như chiếc đũa tre), long cường (mạch nổi to như sóng lớn), long nhược (mạch lặng lờ như sóng nhỏ lăn tăn).

Những điều trên chắc hẳn Cao Biền đã ứng dụng trong cuộc “tầm long” trên toàn cõi nước ta để trấn yểm, nhưng đất phát vương của 12 đời vua Trần (chưa kể thêm đời hậu Trần) đã tồn tại vượt lên ý đồ của Cao Biền. Đó là vùng đất ở nguồn sông Phổ Đà, tức sông Luộc, nằm trên địa phận thôn Lưu Gia (thuộc huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình ngày nay).

Phát vương trên đất kết

Đến với vùng đất đó buổi sơ khai có 3 anh em nhà họ Lưu, gồm: Lưu Khánh Đàm, Lưu Ba, Lưu Lượng. Về sau, cả ba người đều làm quan, trong đó Lưu Khánh Đàm được vua Lý Nhân Tông trọng dụng (khi vua sắp mất vào tháng chạp năm Đinh Mùi 1127 đã cho gọi Đàm vào nhận di chiếu để cùng Lê Bá Ngọc đưa hoàng thái tử là Lý Thần Tông lên ngôi trước linh cữu). Tên tuổi của Lưu Khánh Đàm (và Lưu Ba) đều được Ngô Sĩ Liên nhắc đến trong “Đại Việt sử ký toàn thư”.

                       Những tòa tháp ở Yên Tử nơi vua Trần Nhân Tông khởi phát thiền phài Trúc Lâm

Đó là dòng họ thứ nhất tìm đến cư ngụ tại vùng đất phong thủy ở nguồn sông Luộc. Dòng họ thứ hai đến với đất phát vương là nhà họ Tô chuyên buôn tơ lụa, giàu có nhất nhì trong vùng. Nhưng cả hai họ Lưu và họ Tô cũng chỉ dừng lại ở mức quý tộc, cự phú, chứ không phát vương được. Mà phải đợi đến họ Trần xuất hiện thì “đất kết” mới ứng lên một dòng vương giả mới bắt đầu từ sự có mặt của một người đến từ hương Tức Mặc, xứ Hải Thanh, đó là Trần Hấp.

Trần Hấp sinh được 2 con trai là Trần Lý (lý là cá chép) và Trần Thiện. Trần Lý lớn lên kết hôn với Tô Thị Hiền 15 tuổi, thế là hai họ Trần và Tô kết sui gia và tạo thành thế lực mạnh nhất trong vùng. Trần Lý có người bạn họ Phùng rất giỏi về khoa địa lý, được dân chúng kính nể, thường gọi là “thầy Phùng”.

Ông là người biết rõ kiểu đất “hậu sinh phát đế” ở thôn Lưu Gia, mà tiến sĩ Đinh Công Vĩ đã ghi lại trong cuốn “Chuyện tình vua chúa hoàng tộc Việt Nam” khá thuyết phục như sau: “Ba mũi nhọn chồng lên nhau này là núi Tam Đảo với ba ngọn Phù Nghĩa, Thạch Bàn, Thiên Thị. Đấy là Tổ sơn, long mạch của nó chạy theo hướng Đông Bắc – Tây Nam, thấp dần rồi chìm qua sông Thiên Đức (tức sông Đuống), đến làng Hà Liễu của châu Đằng mới đột khởi nổi lên một ngọn núi khác.

Rồi từ đấy, long mạch lại chạy tiếp từ làng Nhật Cảo đến làng Thái Đường, kết lại ở gò Sao. Phía trước gò ấy có ba gò lớn là Tam thai, phía sau có bảy gò nhỏ là Thất tinh, xung quanh có đầm nước bao bọc, khi mặt trời soi tới thì mặt đầm sáng như gương phản chiếu, đối mặt với các cù lao nhỏ hình đẹp như những bông sen đang nở, đấy là một trong 27 kiểu đất hậu sinh phát đế”.

Khi phát hiện ra chỗ đất kết, thầy Phùng đã bàn với Trần Lý nên cải táng mộ ông bà của họ Trần về chôn ở đó. Vì sao thầy Phùng lại không thể dùng chỗ đất kết để chôn ông bà mình? Theo thầy và nhiều nhà phong thủy khác, người tìm ra long mạch và chỗ huyệt kết chưa hẳn là người có thể cải táng thân nhân của mình để con cháu phát vương được, vì cần phải ứng đúng mệnh số nữa.

Những người tham gia rà soát các vị trí và hình thể của long mạch lần cuối để đặt la bàn xác định nơi hạ huyệt cũng như hướng cải táng đều là người họ Trần. Chỉ duy nhất có thầy Phùng biết chuyện. Xong việc, bên trên mộ được san phẳng y như cũ để không lộ ra dấu vết.

                                  Cây hoa đại 700 tuổi ở Yên Tử do vua Trần Nhân Tông cho trồng

Sau cuộc lễ chưa lâu, vào giữa một đêm rằm sáng trăng, thái tử Sảm (tức vua Lý Huệ Tông sau này) từ Thăng Long chạy loạn đến vùng Lưu Gia đã tình cờ trông thấy và nhanh chóng say mê cô con gái xinh đẹp của Trần Lý là Trần Thị Dung, lúc ấy mới 15 tuổi (là chị em chú bác ruột với Trần Thủ Độ), rồi cưới Dung. Đây là sự kiện mở đầu cho một loạt biến cố tiếp đó để vương quyền nhà Lý chuyển sang tay nhà Trần.

 Nguồn: Tạp chí Duyên dáng Việt Nam

Danh Sách Huyệt Phát Đế Vương Và Công Hầu

Cao Biền (821 – 887), người U Châu (Bắc Kinh ngày nay), là tướng nhà Đường, trên thông thiên văn, dưới tường địa lý, được Vua Đường Ý Tông sai sang Giao Châu làm Tiết Độ Sứ. Trước khi đi, quan xem thiên văn nhìn thấy bao vì tinh tú đều chầu về Cổ Pháp đã bẩm báo lên vua. Vua Đường lo lắng về linh khí nước Nam quá vượng, dặn riêng với Cao Biền rằng: “Trưng Thị là hai người đàn bà mà làm rung chuyển cả cơ nghiệp nhà Đông Hán; rồi lại Triệu Ẩu, Lý Bôn … Làm cho ta vất vả lắm mới dẹp được. Nay trẫm thấy linh khí An Nam quá thịnh, e sau có biến. Khanh đến đó trước bình giặc Nam Chiếu, sau tìm cách trấn yểm linh khí An Nam, đi và vẽ bản đồ về cho trẫm”.

Vì thế, Cao Biền đi xem hình thế núi sông, viết sách: “Cao Biền địa lý Tấu thư kiểu tự” nói đến 632 huyệt chính cùng 1517 huyệt bàng.

Hà Đông: 81 chính, 246 bàng

Sơn Tây : 36 chính, 85 bàng

Vĩnh yên, Phúc yên, Phú thọ : 65 chính, 155 bàng

Hải Dương, Hưng Yên, Kiến An : 183 chính, 483 bàng

Gia Lâm, Bắc ninh, Đáp cầu, Bắc giang, Lạng sơn : 134 chính, 223 bàng

Hà Nam, Nam Định, Thái Bình, Ninh Bình : 133 chính, 325 bàng.

Ví dụ phần đầu đề cập đến Hà Đông (Hà Tây) trong đó có 81 huyệt chính và 246 huyệt bàng.

Huyện Thanh Oai: 9 chính; 26 bàng

Chương Đức (Chương Mỹ và Mỹ Đức): 11 chính; 34 bàng

Sơn Minh (ứng Hoà): 9 chính; 26 bàng

Hoài An: 6 chính; 19 bàng

Thanh Trì: 11 chính; 41 bàng

Thường Tín: 11 chính; 41 bàng

Phú Xuyên: 7 chính; 20 bàng

Từ Liêm: 11 chính; 34 bàng

Đan Phượng; 5 chính; 13 bàng

Cộng: 81 chính; 246 bàng

(Quý vị muốn biết rõ chi tiết hơn vui lòng liên hệ tư vấn)

Từ đất Ninh Bình trở ra, tổng cộng có hơn 2000 ngôi đất quý phát ra Anh hùng hào kiệt, để dâng lên vua Đường. Sau này, Vua Lê Lợi thu thành Đông Quan, bắt được Hoàng Phúc và sách; biết được vua Minh sai Hoàng Phúc xét duyệt và trấn yểm nốt những ngôi đất quý theo sách của Biền.

Ngoài tập Cao Biền địa lý tấu thư kiểu tự, Cao Biền còn một bản tấu nữa về phong thủy là Cao Biền tấu thư cửu long kinh. Bản tấu này đề cập đến 27 ngôi đại địa có thể phát đến đế vương ở nước ta. Trong 27 ngôi đất này có những ngôi đã kết phát rực rỡ như ngôi đất ở Tức Mặc – Nam Định đã tạo nên một Trần triều hiển hách võ công hay ngôi đất ở Cổ Pháp kết phát ra triều Lý.

Qua đó ta thấy đất Việt quả thật là nhiều quý địa. Chỉ tính từ Ninh Bình trở ra mà đã có tới 27 ngôi đất kết Đế vương, hơn 2000 ngôi kết công hầu khanh tướng. Ngày nay lãnh thổ nước ta đã vượt qua Ninh Bình rất xa vào phía Nam với một đại cán long nữa là dãy Trường Sơn thì hẳn là phải thêm hàng ngàn ngôi đất quý nữa.

Quý vị liên hệ: 0817 688 886 để được tư vấn cụ thể hơn.

Cập nhật thông tin chi tiết về Thế Đất “Hậu Sinh Phát Đế” Phát Vương Nhiều Đời Cho Con Cháu Họ Trần trên website Globalink.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!