Chào quý vị và các bạn !
Để những ai quan tâm tìm hiểu phong thủy trên trang này giải trí đôi phút trước khi nghiên cứu phần trung cấp của phong thủy Lạc Việt . Tôi sưu tầm những câu truyện phong thủy và đưa lên đây để mọi người cùng xem cho vui !
Trích từ :http://phunutoday.vn/blog-nguoi-noi-tieng
Những câu chuyện phong thủy lừng danh của Lưu Bá Ôn
(Thâm cung bí sử) – Tuy là một nhân vật có thực trong lịch sử, tuy nhiên, người ta lại biết tới Lưu Cơ – Lưu Bá Ôn chủ yếu qua các câu chuyện về phong thủy. Người ta nói rằng, bất cứ nơi đâu ở Trung Quốc có lưu truyền những truyền thuyết về Lưu Bá Ôn thì ở đó ắt có truyền thuyết về phong thủy. Có lẽ, chẳng phải ngẫu nhiên mà người ta lại gọi Lưu Bá Ôn là bậc tông sư về phong thủy…
Chuyện kể rằng, sau khi lên ngôi hoàng đế, cũng giống như những vị hoàng đế khác, muốn cho giang sơn do mình gây dựng có thể truyền cho con cháu ngàn vạn đời sau, Chu Nguyên Chương bèn phái Lưu Bá Ôn đi khắp nơi trong cả nước xem phong thủy, tìm mọi cách ngăn chặn xuất hiện những người “mệnh lớn”, có thể cướp đoạt thiên hạ của nhà họ Chu.
Lưu Bá Ôn nhận lệnh của Chu Nguyên Chương, lưng mang thần kiếm đi khắp Nam Bắc. Một khi nhìn thấy long mạch lập tức vung kiếm phá bỏ, trừ hậu họa cho hoàng thất họ Chu.
Một ngày, Lưu Bá Ôn đi tới Giang Trang ở chân núi Thạch Khanh, bỗng nhiên thấy từ dưới đất có một con trâu bằng đá đang chạy về phía Giang Trang. Lưu Bá Ôn liền bấm quẻ rồi đến buổi tối hôm đó xem tinh tượng, bỗng nhiên hét lên:
“Không ổn!” Theo tính toán của Lưu Bá Ôn, trong Giang Trang nhất định sẽ sinh ra một người có “mệnh lớn”, tương lai có thể tranh đoạt giang sơn của triều Minh. Để ngăn chặn việc xuất hiện này, Lưu Bá Ôn đã thi triển phép thuật, dùng bảo kiếm chặt con trâu đá làm ba khúc, phá đi phong thủy của Giang Trang.
Một khi phong thủy đã bị phá, người “mệnh lớn” sẽ không thể xuất hiện được nữa. Lưu Bá Ôn còn sợ con trâu đá sau khi bị giết sẽ hồi sinh nên lại dùng lại dùng pháp thuật đem ba khúc của con trâu vừa bị chặt chôn ở 3 nơi khác nhau.
Một lần khác, Lưu Bá Ôn tới vùng Tương Hồ. Lưu Bá Ôn từ lâu đã biết rằng, vùng Tương Hồ là nơi từng được thần tiên làm phép, vì thế, núi sông nơi đây đều có khí tiên. Lần này được chứng kiến tận mắt, quả nhiên không hề tầm thường.
Chân dung Lưu Bá Ôn – người có công rất lớn giúp Chu Nguyên Chương gây dựng nhà Minh.
Chỉ thấy, vùng Tương Hồ ba mặt đều có núi vây bọc, tổng cộng có 99 con suối chảy từ trên núi xuống, mỗi con suối đều ẩn vào trong các khe đá. 99 con suối này đều được tích lũy khí âm nhu nhiều năm bên cạnh khí cương dương của Tương Hồ.
Một khi suối và hồ tương giao, nhất định ngày sau sẽ xuất hiện bậc chân mệnh thiên tử. Tuy nhiên, dường như đây đã là địa thế do tự nhiên tạo ra, làm thế nào để phá được thế phong thủy này? Đây là một vấn đề hóc búa ngay cả với bậc tông sư như Lưu Bá Ôn.
Vì thế, Lưu Bá Ôn đã ở lại Tương Hồ, suy nghĩ các phá giải địa thế phong thủy này.
Một ngày, sau khi đã lao tâm khổ tứ nghĩ đủ mọi cách mà vẫn chưa nghĩ ra, Lưu Bá Ôn lang thang đi tới chân một quả núi, bất ngờ nhìn thấy một hòn đá. Đương lúc mệt mỏi, Lưu Bá Ôn thấy viên đá phẳng phiu bèn ngồi xuống nghỉ chân.
Nào ngờ vừa ngồi xuống thì sự mệt mỏi từ đâu kéo tới, Lưu Bá Ôn dần dần chìm vào giấc ngủ. Cũng chẳng biết Lưu Bá Ôn đã ngủ bao lâu, chỉ biết khi tỉnh lại Lưu Bá Ôn thấy rằng thanh kiếm mình đeo ở hông đã bị tuốt ra khỏi vỏ, mũi kiếm đang chúc xuống dưới đất bên dưới viên đá, ngay chỗ mũi kiếm nước đang phun ra.
Nước từ dưới đất như như những hạt châu báu bám lấy thanh kiếm mà nhảy lên mặt đất. Lưu Bá Ôn giật mình, thần kiếm làm sao tự động tuốt khỏi vỏ? Vì sao mũi kiếm lại chỉ đúng chỗ có mạch nước được? Nhìn kỹ lại, Lưu Bá Ôn chợt mừng thầm.
Hóa ra chỗ đầu thạch kiếm chọc xuống đất chính là chỗ mạch quan trọng nhất giữa hồ và suối. Chỉ cần phá bỏ được mạch nước quan trọng này, biến nó thành một con suối, cho người qua đường hoặc chim thú trong rừng uống thì linh khí của nó tự khắc sẽ biến mất.
Làm được như vậy thì nơi đây chỉ còn là một nơi danh lam thắng cảnh chứ không thể xuất hiện đế vương được nữa.
Nghĩ vậy, Lưu Bá Ôn bèn dùng kiếm thần của mình chém xuống đất nhiều nhất, mạch nước suối từ dưới đất phun lên. Lúc bấy giờ, vừa may có một người tiều phu từ đâu đi tới. Lưu Bá Ôn thấy vậy vừa uống nước từ dưới đất phun lên, vừa cố ý nói lớn:
“Nước ngon thật! Nước ngon thật!” Người tiều phu đang lúc khát nước, nghe thấy Lưu Bá Ôn nói nước ngon bèn quỳ xuống bên cạnh, dùng tay vốc nước đang phun từ dưới lòng đất lên uống. Quả thật, nước vừa vào tới miệng đã thấy ngọt như mật, người cũng không còn thấy khát nữa.
Người tiều phu lúc này mới nhìn xung quanh tứ phía, thấy làm lạ, tự nói với mình: “Ta thường xuyên đi lại qua đoạn đường này mà trước nay chưa từng thấy con suối này. Không biết con suối này từ đâu mà ra?”
Lưu Bá Ôn đang đứng bên cạnh nói: “Con suối này tất có nguồn của nó, uống được nó tất có điều tốt!” Nói xong, Lưu Bá Ôn liền dùng thuật ẩn thân, biến mất trong chớp mắt.
Người tiều phu vừa thấy Lưu Bá Ôn đứng trước mặt mình nói chuyện, chỉ nhoáng một cái đã không còn thấy đâu nữa, cảm thấy rất kỳ quái. Chợt nghĩ lại, người tiều phu cảm thấy đã từng gặp người đàn ông kia ở đâu rồi.
Nghĩ một lát, người tiều phu reo lên, hóa ra là Lưu quân sư. Hóa ra, người tiều phu này là một quân sĩ đã giải ngũ về ở ẩn. Khi còn trong quân ngũ, ông ta đã từng gặp Lưu Bá Ôn. Nhớ lại câu nói của Lưu Bá Ôn rằng uống nước này tất có điều tốt, người tiều phu bèn bỏ bó củi trên lừng, tìm vật liệu dựng một căn lều ngay bên con suối rồi sống luôn ở đây.
Do thường xuyên uống nước từ con suối này, người tiều phu lúc nào cơ thể cũng tráng kiện, khuôn mặt hồng hào. Có người hỏi nguyên nhân vì sao ông có thể khỏe mạnh và trẻ lâu tới như vậy, người tiều phu đều nói là do ông uống nước ở con suối do Lưu Bá Ôn dùng kiếm thần tạo thành.
Không chỉ được giao nhiệm vụ phá thế phong thủy, đoạn long mạch để ngăn chặn việc xuất hiện thiên tử, tranh chấp thiên hạ với họ Chu, Lưu Bá Ôn còn được Chu Nguyên Chương tin tưởng giao cho nhiệm vụ cải tạo phong thủy để đem lại điều lợi cho sự cai trị của triều Minh.
Chuyện kể rằng, sau khi sửa sang song Bắc Kinh, nơi sau này được lựa chọn làm kinh đô triều Minh, Chu Lệ, khi đó vẫn còn là Yên Vương đã tiến hành tu sửa các lăng mộ. Kể từ lúc Chu Nguyên Chương lên ngôi đã lập tức cho sửa phần mộ.
Tuy nhiên, việc sửa phần mộ trước hết phải chọn được nơi đặt mộ. Một hôm, Yên Vương nói với quân sư Lưu Bá Ôn rằng: “Ngươi hãy dẫn đường, chúng ta cùng đi tìm một nơi đặt mộ thật tốt”. Lưu Ba Ôn vừa nghe đã biết Yên Vương muốn tìm địa điểm để đặt hoàng lăng.
Nơi đặt hoàng lăng có can hệ tới vận mệnh của cả triều đại, do vậy phải là nơi có phong thủy thượng đẳng mới được. Nghĩ thế, Lưu Bá Ôn đã cùng với Yên Vương ra đi. Tuy nhiên, hai người từ Đông đi sang Tây, rồi lại từ Nam đi lên Bắc nhưng vẫn không chọn được địa điểm ưng ý.
Cuối cùng, hai người chọn đi từ Bắc xuống phía Tây. Đi một lúc thì tới Đông Trang, hai người nhìn thấy một cây óc chó và một ngọn núi đất vàng, phong cảnh khá đẹp. Yên Vương nói: “Nơi đây được đấy!” Lưu Bá Ôn nói: “Nơi đây chưa được!” Vì sao lại không được?
Lưu Bá Ôn chỉ tay về ngọn núi đất vàng phía trước mặt nói: “Điện hạ xem, đây là phần đất cao, chắc chắn là không thể có long mạch. Xây lăng tại nơi đây, đất nước có nguy cơ bị hủy hoại”. Yên Vương vừa nghe đến câu đất nước bị hủy hoại đã lắc đầu nói: “Không được. Vậy tìm một nơi khác”.
Hai người lại tiếp tục đi tới Tây Trang. Tới đây, Lưu Ba Ôn chỉ tay nói: “Điện hạ, ngài thử nhìn về hướng Bắc xem”. Hai người cùng nhìn về hướng Bắc, bỗng thấy ánh sáng phát ra. Yên Vương nói: “Nơi đây là mảnh đất tốt, thử tới gần xem thử ra sao”.
Hai người cùng tới nơi thì thấy nơi đây ba mặt đều có núi che chở, dựa vào phía Bắc quay mặt về phía Nam, là một nơi có địa thế cực đẹp. Yên Vương lúc này vui mừng ra mặt quay sang hỏi Lưu Bá Ôn: “Giờ thì được rồi chứ?”
Lưu Bá Ôn nói: “Không tệ, có thể nói là nơi đất tốt. Điện hạ từ đây nhìn về phía Nam thử, nơi đây phía bên trái có núi thanh long, bên phải có núi bạch hổ, tả thanh long, hữu bạch hổ, chỗ điện hạ đang đứng chính là ổ mà thanh long nằm đấy”.
Một chuyện khác lại kể rằng, Lưu Bá Ôn sau khi giúp Chu Nguyên Chương lập nên nhà Minh thì xin cáo quan về quê ở ẩn, nhằm tránh những đòn thù của Chu Nguyên Chương lẫn quan thừa tướng Hồ Duy Dung.
Để Hồ Duy Dung lẫn Chu Nguyên Chương không biết được hành tung của mình, Lưu Bá Ôn bèn cải trang làm đạo sĩ, bí mật rời khỏi nhà, ngao du thiên hạ, trở thành một đại sư phong thủy thần bí trong giang hồ.
Một lần, Lưu Bá Ôn đi tới Cửu Đàm núi La Phù. Người đi cùng ông là tướng quân Bành Oánh Ngọc trong trang phục một hòa thượng. Vì sao Lưu Bá Ôn lại tìm tới Cửu Đàm ở núi La Phù?
Hóa ra, chuyện là khi Lưu Bá Ôn dẫn quân nam chinh đã từng đi qua Cửu Đàm, nhận thấy nơi đây địa thế không tệ, tuy nhiên, nhân dân lại nghèo khó. Xem xét một hồi, Lưu Bá Ôn phát hiện ra rằng, mặc dù địa thế nơi đây tốt nhưng người dân vẫn nghèo là do nơi đây xuất hiện bố cục trấn phong thủy.
Lúc bấy giờ, do quân tình khẩn cấp, không tiện dừng lại lâu, Lưu Bá Ôn đã hứa với người dân ở Cửu Đàm rằng, đợi tới khi đất nước thống nhất sẽ quay trở lại đây giúp họ thay đổi bố cục trấn phong thủy kia để họ có thể thay đổi cuộc sống của mình.
Chính vì thế, sau khi cáo lão về quê, nhớ tới lời hẹn năm xưa, Lưu Bá Ôn đã quyết định quay trở lại Cửu Đàm.
Năm xưa khi hành quân qua Cửu Đàm, Lưu Bá Ôn đã từng xem xét nhiều lần địa hình, địa thế của Cửu Đàm. Phần lưng của Cửu Đàm dựa vào núi La Phù, mỗi năm lũ từ trên núi La Phù đều đổ xuống Cửu Đàm. Đây chính là bố cục đã trấn áp phong thủy của Cửu Đàm.
Vì vậy, Lưu Bá Ôn cho rằng, chỉ cần trị được lũ từ trên núi đổ xuống khu vực Cửu Đàm thì người dân có thể tránh được tai nạn hàng năm, từ đó có thể an cư lạc nghiệp.
Lưu Bá Ôn đã cùng người dân Cửu Đàm nắn dòng chảy của con suối thành theo hình chữ chi để giảm sức chảy của dòng nước khi có lũ về nhờ vậy, thay đổi luôn cả bố cục phong thủy bị trấn áp của Cửu Đàm. Từ đó về sau, người dân Cửu Đàm không còn phải chịu lũ quét hàng năm nữa.
Câu chuyện “Trăm mèo giữ cá” cũng ghi lại một truyền thuyết phong thủy rất thú vị về Lưu Bá Ôn. Chuyện kể rằng, ba anh em họ Du gồm Du Thông Hải, Du Thông Nguyên và Du Thông Uyên đều là những bộ tướng rất giỏi của Sào Hồ thủy quân Lý Bát Đầu.
Khi Chu Nguyên Chương dẫn binh chiếm Hòa Châu, Lý Bát Đầu bị Nguyên Đạt Tử ở Lô Châu đán úp nên muốn mượn quân của Chu Nguyên Chương để báo thù. Trong khi đó, Chu Nguyên Chương muốn mượn thuyền của Bát Đầu vượt sông tới Thái Bình Phủ, giải quyết vấn đề lương thảo.
Ba anh em họ Du dũng cảm thiện chiến, lập được nhiều chiến công. Trong đó công lao lớn nhất chính là người anh cả Du Thông Hải. Du Thông Hải tự là Bích Tuyền, đã theo Chu Nguyên Chương phá Hải Nha, đánh gục Ninh Quốc, đuổi Trần Hữu Lượng, bắt sống Trương Sĩ Thành,… công trạng rất lớn, từng được phong làm Bình Chương Chính sự và nhiều chức vụ trọng yếu khác trong quân đội.
Tuy nhiên, trong trận Bình Giang, Du Thông Hải không may bị trúng tên mà chết. Khi Du Thông Hải chết, Chu Nguyên Chương ôm xác họ Du mà khóc, đồng thời nói với Lưu Bá Ôn và tướng quân Từ Đạt rằng: “Vừa mới bắt đầu cuộc chiến, Bích Tuyền đã chết khác gì ta mất một cánh tay! Mau mau thu quân, tổ chức tang lễ cho ông ta”.
Lúc bấy giờ, Lưu Bá Ôn và Từ Đạt cũng chảy nước mắt nói, khuyên rằng: “Bích Tuyền chết, thần cũng đau lòng, thiết nghĩ cũng nên tổ chức tang lễ. Chỉ là hiện tại không có thời gian, mong chúa công nên lấy xã tắc làm trọng, quân không thể thu, bính lính không thể rút lui được!”
Du Thông Nguyên và Du Thông Uyên cũng khóc lóc nói: “Ơn sâu của chúa công khiến anh em họ Du chúng tôi dù có tan xương nát thịt cũng không thể báo đáp cho hết được.
Khi cơ nghiệp sắp thành mà rút binh cũng không phải là mong muốn của anh trai chúng thần”. Mọi người đều khẩn khoản can gián, Chu Nguyên Chương nghe có lý, đành phải gạt nước mặt nói: “Được! quân sư, hãy nhớ cho kỹ, sau này nếu có phong thưởng thì Bích Tuyền sẽ là người đầu tiên”.
Sau này khi khởi nghĩa thành công, Chu Nguyên Chương lập nên nhà Minh, xưng làm hoàng đế đã tổ chức quốc tang cho Du Thông Hải, truy phong làm Quắc Quốc Công, thụy hiệu là Trung Liệt.
Du Thông Nguyên được phong làm Nam An Hầu còn Du Thông Uyên được phong làm Việt Tuyển Hầu. Ngoài ra, Chu Nguyên Chương còn đặc cách hạ lệnh cho Lưu Bá Ôn giúp mình xây dựng một căn nhà thật đẹp tặng cho anh em họ và con cháu họ Du.
Lưu Bá Ôn cùng với ba anh em họ Du đều sống chêt vì Chu Nguyên Chương đánh lấy thiên hạ, lập nhiều chiến công. Trong quá trình khởi nghĩa, hai bên cũng có thể nói là vào sống ra chết cùng nhau, tình cảm sâu nặng.
Nay được Chu Nguyên Chương giao việc xây nhà cho họ Du, Lưu Bá Ôn đương nhiên không có lý do gì để không làm hết sức mình. Vì thế, ngôi nhà mà Lưu Bá Ôn xây dựng cho anh em họ Du hết sức nguy nga tráng lệ. Ngoại trừ hoàng cung, tại Nam Kinh không có ngôi nhà nào có thể sánh kịp với căn nhà này.
Tuy nhiên, người đời xưa thường nói, cây càng cao thì gió càng lớn. Căn nhà quá to, thường bị người ta lấy ra so sánh với hoàng cung của anh em họ Du đương nhiên khó tránh khỏi việc mang theo mầm họa.
Thừa tướng Hồ Duy Dung trước mặt Chu Nguyên Chương đã bẩm tấu rằng: “Bệ hạ phong công, phong hầu cho nhà họ Du, lại còn tổ chức quốc tang cho Du Thông Hải, có thể nói là đối đãi với họ không hề bạc. Nay bệ hạ lại xây cho nhà họ Du một căn nhà to đẹp như vậy, sợ rằng…”
Chu Nguyên Chương ngắt lời họ Hồ, nói: “Bích Tuyền công ở trên tất cả mọi người, đó là ý trẫm quyết định”. Hồ Duy Dung vẫn chưa chịu thôi, nói: “Đây là chỗ nhân hậu của bệ hạ. Tuy nhiên, đây có lẽ sẽ là điều bất lợi cho xã tắc”.
Chu Nguyên Chương bắt đầu để ý, hỏi: “Vì sao?” Hồ Duy dung chỉ vào căn nhà cao ngất của nhà họ Du nói: “Bệ hạ xem, mây khói thành vòng, nhà họ Du xuất hiện vương khí!” Chu Nguyên Chương nghe thấy hai chữ “vương khí” thì trầm ngâm không nói.
Hồ Duy Dung biết cơ hội đã tới, nói tiếp: “Du Thông Hải khi còn sống đức cao vọng trọng, bộ hạ cũ đều quen nghe chỉ huy của ông ta. Nay Thông Nguyên và Thông Uyên đều giữ chức vụ quan trọng, hậu duệ của Thông Hải lại đều là những người xuất sắc.
Nếu một ngày nào đó họ có chí khác thì thiên hạ của Đại Minh e rằng không được bền lâu”. Vốn tính đa nghi, lại chỉ lo có kẻ tranh giành thiên hạ với mình nên khi nghe những lời này của Hồ Duy Dung, Chu Nguyên Chương không khỏi gật đầu, nói: “Ngươi nói nên làm thế nào?”Hồ Duy Dung nói ngay: “Dỡ nhà, phá vương khí”.
Vừa may, câu chuyện mới tới đó thì Lưu Bá Ôn tới. Vừa nghe thấy lời của Hồ Duy Dung, trong lòng Lưu Bá Ôn đã thất kinh. Nếu như dỡ nhà thì chẳng phải nhà họ Du cũng bị hủy hoại hay sao?
Lưu Bá Ôn định lên tiếng ngăn cản Chu Nguyên Chương, tuy nhiên, chợt nghĩ, nay Chu Nguyên Chương đã là hoàng đế chứ không còn là người ra sống vào chết với nghĩa quân khi xưa nữa, nếu không cẩn thận có thể mất mạng như chơi.
Chợt trong đầu Lưu Bá Ôn lóe lên một cách. Ông vội bước vào trong phòng nói với Chu Nguyên Chương: “Hoàng thượng, khi xây dựng thần đã sơ ý xây nhà của họ Du quá cao. Thần đang định đến gặp hoàng thượng để xin ý kiến về việc giải trừ vương khí của nhà họ Du”.
Chu Nguyên Chương thấy vậy hỏi: “Tiên sinh có kế gì không?” Lưu Bá Ôn nói: “Cá (trong tiếng Hán, chữ cá với họ Du có cách đọc như nhau, vì thế cá ý chỉ nhà họ Du) mà ra biển thì có thể hóa rồng. Nay thần chỉ cho căn nhà họ Du một cái giếng.
Lại thêm, cá vốn rất sợ mèo ăn thịt vì thế, thần đã phái một con mèo canh giữ trước cửa, cá chỉ cần lò đầu ra thì mèo có thể nuốt gọn. Như vậy, chẳng cần phải tốn công sức dỡ nhà khiến mất lòng dân, phá hoại cảnh thái bình thịnh trị mà vẫn có thể trừ được vương khí nhà họ Du. Hoàng thượng thấy sao?”
Chu Nguyên Chương nghe kế của Lưu Bá Ôn thấy hợp lý bèn nói: “Cứ theo cách của tiên sinh mà làm”.
Sau khi được sự đồng ý của Chu Nguyên Chương, Lưu Bá Ôn đã bày “bát quái trận” xung quanh nhà họ Du. Ông lệnh cho quân sĩ dựng một tấm bia đá ở trước cửa nhà họ Du, bên trên bia khắc hình hơn 100 con mèo.
Phía trước của tấm bia là một cái giếng. Phía sau nhà là một bức tường chặn kín. Phía Đông của căn nhà là một đài câu cá. Sau đó, Lưu Bá Ôn nói với Chu Nguyên Chương: “Nếu như một ngày nào đó, con cá này phá cửa mà ra thì sẽ bị hơn 100 con mèo nuốt chửng.
Nếu như có chạy thoát khỏi 100 con mèo thì phía sau là tường chắn, hai phía Đông Tây là đài câu cá, tầng tầng lớp lớp bao vây, nó cũng không thể ra được tới biển để biến thành rồng được. Muốn có nước chỉ còn cách là xuống chiếc giếng ở trước nhà. Cá mà sống ở giếng thì không thể nào làm nên trò trống gì được”.
Chu Nguyên Chương thấy rằng sắp đặt như vậy, nhà họ Du sẽ không bao giờ có thể ra tới biển để trở thành rồng thì vui mừng lắm, thưởng cho Lưu Bá Ôn rất hậu hĩnh.
Hải Phong
Chuyện Hàn Tín chôn sống mẹ ruột để được phong thủy
(Thâm cung bí sử) – Hàn Tín là cái tên không xa lạ với nhiều người dân thuộc nền văn hóa Đông Á. Họ Hàn là khai quốc công thần nhà Tây Hán, là một tướng quân anh dũng thiện chiến, một nhà quân sự túc trí đa mưu. Nhờ chiến thuật linh hoạt, biến đổi khôn lường của mình, Hàn Tín đã góp một công sức không nhỏ trong việc giúp Hán Cao Tổ Lưu Bang giành được thiên hạ trong cuộc tranh chấp với Sở Bá Vương Hạng Vũ, được người đời xưng tụng là “quốc sĩ vô song”, “công cao vô nhị”.
Tuy nhiên, dù công cao cái thế, song trong nhiều truyền thuyết dân gian, Hàn Tín cũng có những chuyện chẳng lấy gì làm quang minh chính đại. Người ta nói rằng, để “được phong thủy” phục vụ cho sự thăng tiến của bản thân, Hàn Tín đã chôn sống mẹ ruột của mình…
Hàn Tín sinh năm 229 trước Công nguyên trong một gia đình nghèo khó. Từ khi sinh ra, Hàn Tín đã không có cơ hội nhìn mặt cha ruột của mình, theo mẹ trải qua những ngày cực kỳ gian khổ, sống nhờ sự cứu tế của người khác vì thế hai mẹ con họ Hàn thường xuyên bị người xung quanh coi rẻ.
Khi Hàn Tín lớn lên một chút, cũng chẳng có vẻ gì là một người có chí hướng, tính tình phóng túng, không hiểu lễ độ, chẳng lo gì tới việc làm ăn, cả ngày đeo bên mình thanh kiếm do ông cha truyền lại lang thang khắp đây đó khiến từ đầu phố tới cuối hẻm không ai không chê cười.
Một hôm, Đình trưởng Nam Xương Đình thấy Hàn Tín tuy phóng đãng, ngỗ ngược song tướng mạo đường hoàng, cốt cách hơn hẳn hạng phàm phu tục tử nên đã mời họ Hàn tới làm môn khách trong nhà mình.
Tuy nhiên, Hàn Tín là kẻ chẳng quan tâm tới lễ tiết, chẳng quan tâm tới chuyện vụn vặt, vì thế chẳng biết làm thế nào mà đắc tội với phu nhân của đình trưởng. Đình trưởng phu nhân cứ mỗi lần nhìn thấy Hàn Tín là lập tức nổi điên lên, nhất định không chịu nhìn mặt.
Vì thế, mỗi khi Hàn Tín tới ăn cơm thì cơm đã hết từ lâu. Thời gian trôi qua, Hàn Tín cũng nhận ra rằng đình trưởng phu nhân không ưa gì mình, đành phải bỏ đi.
Hàn Tín sinh năm 229 trước Công nguyên trong một gia đình nghèo khó.
Hàn Tín rời khỏi nhà đình trưởng Nam Xương, chợt nhớ ra một việc. Một hôm, nhà đình trưởng mời tới một lão tiên sinh. Người này râu dài bạc như cước nhưng mặt mũi thì lại hồng hào, giống như một cao nhân đắc đạo.
Sau khi đình trưởng và ông lão uống trà xong, hai người cùng nhau đi ra ngoài lên núi. Hàn Tín nổi cơn tò mò, cũng lần theo sau. Mỗi khi hai người quay lại nhìn, Hàn Tín lại vội vàng nấp vào bụi cây. Đình trưởng và ông lão đi vòng qua mấy ngọn núi, nơi này thì nhìn ngó tìm kiếm, nơi khác lại xem xét, thi thoảng lại dừng lại, đo đo đạc đạc, sau một hồi lại đi.
Đột nhiên, hai người dừng lại ở một nơi, chỉ thấy mặt ông lão lộ ra vẻ vui mừng. Hàn Tín rất muốn biết họ đang làm chuyện gì, vì thế, tiến sát tới gần trốn ở một bụi rậm cách rất gần 2 người. Câu chuyện giữa đình trưởng và lão tiên sinh, Hàn Tín nghe rõ từng câu một.
Lúc bấy giờ, chỉ nghe ông lão nói: “Nơi đây không tồi, để tôi đo đạc kỹ hơn xem sao”. Vị đình trưởng nghe vậy, cung kính nói: “Mong lão tiên sinh giúp cho, chuyện tiền công, chỉ cần tiên sinh muốn bao nhiêu sẽ có bấy nhiêu”.
Ông lão dường như không nghe thấy lời của vị đình trưởng, chuyên tâm quan sát khu vực quanh đó. Đột nhiên, ông lão nói: “Đây thực là một nơi bảo địa phong thủy hiếm gặp! Ta đã xem phong thủy rất nhiều năm, đi khắp nam bắc nhưng chưa bao giờ gặp một nơi phong thủy đẹp như nơi đây”.
Viên đình trưởng vui mừng như muốn nhảy cẫng lên, vội vàng bước tới hỏi: “Có thật không? Mong tiên sinh chỉ bảo rõ hơn”.
Ông lão dùng tay vuốt chòm râu bạc như cước của mình, cười nói: “Trên đầu của nơi này chính là hồ Hồng Trạch, phía dưới chân thì có rất nhiều ao hồ nhỏ, bên tay trái chính là Ác Kim Hồ, bên tay phải là Nữ Sơn Hồ.
Theo phong thủy mà nói thì, nơi sông hồ uốn khúc quay vòng trở lại, đó chính là nơi tích tụ long mạch”. Đình trưởng nghe xong vui mừng lắm, nói: “Vậy thì quyết định chọn nơi đây!” Tới lúc này, Hàn Tín mới biết rằng, hóa ra hai người này đang xem phong thủy để tìm nơi chôn cất người.
Đúng lúc Hàn Tín định bỏ đi thì ông lão lại nói với vị đình trưởng: “Vì ông đã tin ta nên ta cũng tiết lộ cho ông biết. Ông xem, Hồng Trạch Hồ ở phía trên đầu trông giống như một chiếc mũ của nguyên soái, hai bên Ác Kim Hồ và Nữ Sơn Hồ giống hai chiếc đai bay của mũ.
Ngoài ra còn có Bạch Mã Hồ đứng ở bên cạnh hầu hạ. Đây chính là mảnh đất phong thủy có thể giúp người ta phong hầu bái tướng hơn nữa chính là một võ tướng rong ruổi chiến trường”. Đình trưởng nghe thấy vậy, càng vui hơn nói:
“Nếu như điều đó là thật thì tại hạ và tiên sinh sẽ cùng nhau hưởng vinh hoa phú quý, truyền đến ngàn vạn đời sau!” Thầy phong thủy cười một cách mãn ý nói: “Ta đây đang chờ được nghe một câu nói như vậy của đình trưởng.
Nếu đến ngày ta trăm tuổi mà được cùng chôn ở nơi đây để được cùng hưởng phong thủy thì ta sẽ chọn chính huyệt cho đình trưởng”. Viên Đình trưởng nói: “Không sai, đại trượng phu đã nói một lời, bốn ngựa cũng không đuổi kịp! Lão tiên sinh ngài cứ yên tâm”.
Thầy phong thủy nói: “Mang cho ta một cái cọc tới đây, ta cũng muốn đánh cược một ván. Cả đời khó có thể gặp được nơi phong thủy đẹp như thế này, cần phải điểm vào chính huyệt của nó”.
Chỉ thấy, ông lão đi về hướng Đông 10 bước rồi chăm chú nhìn, một lúc sau, ông lão dùng chiếc cọc tre cầm trên tay đóng xuống đất và nói: “Nói thực với ngài, nếu như không có câu nói cùng hưởng vinh hoa phú quý của ngài, thì theo thói thường, tôi sẽ không bao giờ điểm vào chính huyệt cả. Bởi lẽ, nếu như điểm vào chính huyệt sẽ làm tổn hại đến dương thọ của chúng ta.
Hai người nói chuyện tới đây thì Hàn Tín lẳng lặng bỏ đi, coi chuyện này chẳng phải là chuyện gì ghê gớm. Tuy nhiên, sau khi bị đình trưởng phu nhân đuổi ra khỏi cửa, Hàn Tín trở thành kẻ vô gia cư, ăn bữa sáng lo bữa tối, vì thế đột nhiên, Hàn Tín cảm thấy căm ghét nhà đình trưởng.
Vì sao nhà các ngươi lại được ăn sung mặc sướng, được người người tôn trọng trong khi Hàn Tín ta cũng là người lại phải cơm hẩm canh thiu, lại còn phải chịu sự khinh rẻ của người đời. Đột nhiên, Hàn Tín nhớ lại chuyện đình trưởng chọn mộ.
Tên đình trưởng đã giàu có, tương lai lại còn muốn được bái tướng phong hầu, vừa giàu vừa sang, tất cả mọi điều tốt lành đều thuộc về ngươi cả. Không được, ta nhất định rút cây cọc đánh dấu để xem ngươi còn bái tướng phong hầu nữa hay không.
Nghĩ vậy, Hàn Tín đi theo đường nhỏ chạy lên núi. Cây cọc tre mà thầy phong thủy đánh dấu vẫn còn đó. Hàn Tín xông đến định nhổ cây cọc lên. Tuy nhiên, đương lúc cầm vào cây cọc, Hàn Tín chợt nghĩ, dù ta có nhổ cây cọc này đi, đình trưởng vẫn có thể dẫn thầy phong thủy tới xem lại, chi bằng ta đổi cây cọc đi chỗ khác, phong thủy cũng sẽ thay đổi theo.
Đáng tiếc đây là nơi có phong thủy đắc địa. Chi bằng ta mang phần mộ của nhà ta tới đây, nếu đúng như ông lão phong thủy nói thì gia đình ta rồi cũng có lúc phong hầu bái tướng.
Nghĩ thế, Hàn Tín nhổ cây cọc tre rồi dùng một ký hiệu riêng đánh dấu vào chỗ cây cọc vừa bị rút. Tiếp đó, Hàn Tín đi ngang theo sườn núi mấy chục bước, nhìn thấy xung quanh khung cảnh không khác nhiều so với nơi thầy phong thủy đã chọn liền lấy cây cọc đóng xuống đó.
Tuy nhiên, lúc này Hàn Tín lại gặp phải khó khăn lớn. Từ nhỏ, Hàn Tín đã không biết mặt cha mình là ai, cũng chẳng biết cha mình chôn ở đâu làm sao để mang phần mộ cha tới chôn ở nơi phong thủy bảo địa này đây.
Nghĩ thế, Hàn Tín chạy về nhà hỏi mẹ, không ngờ, mẹ Hàn Tín đáp: “Con không có cha, nhà ta cũng chẳng có phần mộ đâu”. Hàn Tín nói: “Con làm sao lại không có cha được? Không có cha thì con từ đâu ra? Lẽ nào là mẹ nhặt về hay sao?”
Tuy nhiên, bất kể Hàn Tín hỏi thế nào, bà mẹ cũng không chịu nói nửa lời. Hàn Tín không còn cách nào khác, đành phải đem chuyện viên đình trưởng chọn mộ và dự định của mình nói với mẹ. Lúc này, mẹ của Hàn Tín mới mở hòm lấy ra một thứ, Hàn Tín nhìn theo, hóa ra đó là một bộ da động vật.
Hàn Tín kinh ngạc lùi lại sau hai bước, nhìn trừng trừng vào bộ da hỏi: “Đây là thứ gì vậy?” Mẹ Hàn Tín nước mắt lưng tròng nói: “Con chẳng hỏi ta cha con là ai hay sao? Đây là cha con…” Hàn Tín cầm bộ da thú dữ dằn ném xuống đất rồi nói: “Không! Đây làm sao là cha con được?”
Bà mẹ vừa khóc vừa nói: “Con à, con hãy từ từ nghe mẹ nói đã. Nhà ta cách nơi đây rất xa, lúc đó, gia đình chúng ta vẫn có thể coi là một nhà có của ăn của để. Khi ta trưởng thành, một đêm, trong phong ta bỗng nhiên xuất hiện một chàng công tử vô cùng tuấn tú, có thể nói là trên đời khó tìm.
Sau đó, cứ cách vài ba hôm chàng ta lại tới một lần nhưng lúc tới và lúc đi đều không để lại tông tích gì, cũng chẳng ai hay biết. Chúng ta qua lại với nhau suốt hơn một năm, vì thế mới có con ra đời”. Hàn Tín cướp lời mẹ nói: “Vậy thì chàng công tử tuấn tú kia là cha của con?”
Mẹ Hàn Tín lại nói: “Đêm hôm đó, chàng ta lại tới, chàng nói với ta sự thật. Chàng ta nói chàng ta là một con khỉ đã tu luyện hơn nghìn năm, đã đắc đạo thành tiên. Tuy nhiên, nay chàng ta đã phạm vào luật trời, tiên giới muốn trừng phạt chàng ta, chàng ta không sống được nữa nên mới nghĩ tới chuyện lấy da của mình để tặng cho ta.
Chàng ta nói xong thì biến mất, trong phòng từ đâu bỗng xuất hiện một bộ da khỉ. Chuyện chàng trai là khỉ thành tinh thì có thể giấu được chứ cái bụng của ta thì làm sao mà giấu được. Cha mẹ ta căn vặn ta xem ai là cha đứa trẻ nhưng ta không thể trả lời được.
Cha mẹ mắng chửi ta là làm nhục gia đình, đuổi ta ra khỏi nhà. Ta mang cái bụng to đi khắp phố phường tìm miếng ăn, cuối cùng sinh ra con ở một bãi cỏ hoang. Người chưa tới số chết thì chắc chắn sẽ được cứu.
Khi mẹ hai mẹ con ta đang sắp chết vì đói thì chúng ta được một ông lão cứu sống. Ông lão đó họ Hàn, không con không cái, chỉ có 2 ông bà già chung sống với nhau. Ta đã nhận hai ông bà ấy làm cha mẹ nuôi. Vì thế, con mới mang họ Hàn.
Hai ân nhân của chúng ta lần lượt qua đời, chính vì thế, hai gian nhà này mới trở thành nơi nương tựa của mẹ con ta”.
Hàn Tín nghe xong, chẳng nói chẳng rằng, cầm bộ da khỉ lên, tới sân sau tìm một cái xẻng rồi lên núi. Sau khi tìm được chỗ, chẳng mất bao nhiêu công sức, Hàn Tín đã đào được một cái hố lớn, to bằng huyệt mộ. Đào xong, Hàn Tín ném bộ da khỉ xuống dưới đáy huyệt.
Tuy nhiên, khi bộ da khỉ còn chưa rơi xuống tới đáy huyệt thì một cơn gió từ đâu thổi tới, đẩy ngược bộ da lên. Hàn Tín ném lại, lại bị gió thổi lên. Hàn Tín lấy làm lạ, nhìn xung quanh không hề thấy có gió. Hàn Tín lại cầm bộ da ném lại một lần nữa, lại bị gió thổi ngược lên.
Dường như gió sinh ra từ dưới đấy huyệt. Hàn Tín lúc này mới nghĩ thầm: Ta không tin là không chôn được! Nghĩ xong, Hàn Tín tìm một viên đá to đặt lên trên miếng da khỉ rồi ném xuống dưới huyệt. Tuy nhiên, kết quả viên đá rơi xuống còn bộ da khỉ vẫn bị thổi ngược lên trên. Hàn Tín thấy không có cách nào khác, đành phải quay về nhà gọi mẹ.
Khi gọi mẹ tới, Hàn Tín nói mẹ mình xuống huyệt để đón bộ da khỉ cho mình, đợi khi mình dùng xẻng xúc đất đổ đè lên bộ da xong thì sẽ kéo mẹ lên. Mẹ Hàn Tín nghe theo lời của con trai trèo xuống hố, hai tay nhận bộ da khỉ.
Không ngờ khi Hàn Tín chỉ mới xúc được một xẻng đất thì một cơn cuồng phong không biết từ đâu thổi tới, cuốn toàn bộ đất cát mà Hàn Tín đào lên lúc trước lấp xuống huyệt mộ. Mẹ Hàn Tín cũng bị đất đá chôn luôn dưới huyệt.
Hàn Tín sợ quá, chẳng biết làm thế nào, đứng ngây ra một lúc rồi mới vội vã dùng xẻng đào đất lên để cứu mẹ. Thế nhưng, đất bị đào lên tới đâu thì như có phép lạ lại bị hút trở lại tới đó. Hàn Tín biết rằng, mình không thể cứu được mẹ, khóc một trận lớn, khấu đầu lạy ba cái rồi ngầm ngùi trở về nhà.
Khi Hàn Tín từ mộ mẹ mình trở về, đi ngang qua khu chợ thì có mọt người mổ lợn tuổi tác tương đương với Hàn Tín bước ra chặn lại. Anh chàng mổ lợn này cơ thể cao lớn, khỏe mạnh, tay lúc nào cũng lăm lăm con dao mổ, đi lại nghênh ngang, khiến cả thành Hoài Âm không ai không sợ.
Tên mổ lợn chặn Hàn Tín lại nói: “Nhìn ngươi cao to, ngựa tốt, lại đeo bên mình một thanh kiếm giống như ai cũng phải sợ ngươi! Nếu như ngươi có gan thì rút kiếm ra tỉ thí với ta, xem kiếm của ngươi mạnh hơn dao mổ lợn của ta bao nhiêu.
Nếu như ngươi sợ chết không dám thì hãy quỳ xuống bò quá háng của ta mà đi tiếp”. Lúc này, những kẻ ăn theo tên mổ lợn cũng không ngớt đứng bên ngoài hò reo thách thức Hàn Tín.
Hàn Tín nhìn bộ dạng cao lớn của tên mổ lợn, cảm thấy không ổn. Lúc đó, đến cơm Hàn Tín cũng chưa ăn, lấy đâu ra sức mà đánh lại một tên mổ lợn to lớn thế này. Nếu như mình bị đánh chết, mọi người đều sợ tên đồ tể, không ai ra làm chứng thì chẳng khác gì mình chết oan.
Thôi được rồi, chẳng phải ta muốn sau này được phong hầu bái tướng hay sao? Tới lúc đó ta trả mối thù bị xỉ nhục này cũng chưa muộn. Nghĩ vậy, Hàn Tín chầm chậm cúi đầu, quỳ xuống và bò qua háng của tên đồ tể mà đi. Những người đứng xem xung quanh ai nấy được một trận cười vỡ bụng.
Hàn Tín ôm ấp chí lớn ngang dọc chiến trường, mang thanh kiếm gia truyền tới đầu quân dưới trướng của Hạng Lương. Sau khi Hạng Lương bại trận bị chết, Hàn Tín theo về với Hạng Vũ, làm chức chấp kích lang trung, thực tế là chức canh cửa.
Hàn Tín nhiều lần hiến kế cho Hạng Vũ nhưng Hạng Vũ vốn tự phụ, không thích nghe ý kiến của người khác. Hàn Tín cảm thấy mình ở dưới trướng của Hạng Vũ sẽ không thể thi triển được tài năng vì thế quay sang đầu quân cho Lưu Bang, làm một chức quan nhỏ trông coi kho lương.
Quân sư của Lưu Bang là Tiêu Hà sau nhiều lần nói chuyện với Hàn Tín, phát hiện Hàn Tín là một nhân tài, nhiều lần tiến cử Hàn Tín với Lưu Bang. Tuy nhiên, Lưu Bang cũng như Hạng Vũ không mấy để ý tới Hàn Tín.
Trong một lần đại quân của Lưu Bang hành quân, mười mấy vị tướng lĩnh đã tìm cách bỏ trốn. Hàn Tín cũng cảm thấy mình không được Lưu Bang trọng dụng nên cũng bỏ trốn theo. Tiêu Hà sau khi biết chuyện, vội vàng đuổi theo Hàn Tín.
Đây chính là nguồn gốc của giai thoại nổi tiếng: “Dưới trăng Tiêu Hà đuổi theo Hàn Tín”. Sau khi Tiêu Hàn tìm được Hàn Tín trở về, đã hết lời tiến cử Hàn Tín với Lưu Bang. Nể tình của quân sư họ Tiêu, Lưu Bang mới chấp nhận phong cho Hàn Tín làm tướng quân.
Sau khi có được sự trọng dụng, Hàn Tín có cơ hội thi triển tài năng. Những chiến thắng vang dội của quân Hán trước quân Sở đều do Hàn Tín thực hiện. Do công lao ngày càng lớn, tước vị của Hàn Tín cũng ngày một cao hơn.
Trước sau, Hàn Tín đảm nhiệm các chức tướng quân kiêm tả thừa tướng, đại tướng quân kiêm tướng quốc, Tề vương, Sở vương. Tuy nhiên, cuối cùng Hàn Tín bị giáng làm Hoài Âm hầu. Vì thế, sau này, người ta đều gọi Hàn Tín là Hoài Âm hầu.
Do công cao át chủ, Hàn Tín trở thành mối đe dọa đối với triều đình nhà Hán. Vì thế, sau khi Lưu Bang chết, Lã Hoàng hậu vu cáo Hàn Tín mưu phản rồi ra lệnh giết chết.
Năm bị giết, Hàn Tín mới chỉ 32 tuổi. Người ta đều nói, do Hàn Tín chôn sống mẹ mình để được phong thủy làm tổn thương tới dương thọ vì thế mới chết trẻ như vậy.
Hải Phong
Share this:
Twitter
Facebook
Like this:
Số lượt thích
Đang tải…