Phong Thủy Kinh Thành Huế / Top 11 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 5/2023 # Top View | Globalink.edu.vn

Kiến Trúc Kinh Thành Huế

Xây dựng kinh thành Huế lúc bấy giờ có ý nghĩa chiến lược đối với vận mệnh quốc gia. Do đó, vua Gia long rất cẩn trọng từ việc lựa chọn vị trí đến các yếu tố phong thủy. Tương truyền, trước khi chọn địa điểm, nhà vua đã đến chùa Thiên Mụ để cầu xin Bà Trời chỉ cho vị trí đắc địa. Theo đó, Bà Trời bảo vua Gia Long hãy thắp nén hương cưỡi ngựa chạy ngược dòng sông Hương, đi đến đâu nén hương tắt thì đó chính là vị trí định đô của nhà Nguyễn.

Cấu trúc lớp không gian thể hiện trong kiến trúc cố đô Huế

Kinh thành Huế được tổ chức theo các lớp không gian. Bên trong mỗi lớp không gian là một tổng thể với hàng trăm công trình kiến trúc lớn nhỏ. Tất cả các công trình này đều được xây dựng xung quanh một trục chính, theo hướng Đông Nam – Tây Bắc. Đây là hướng có núi Ngự Bình, thuận lợi cả về địa hình địa thế cho đến yếu tố phong thủy và âm dương ngũ hành. Các phân tích chuyên sâu đều cho thấy ở vùng đất này có nước phủ bốn bề. Theo phong thủy đây sẽ là nơi tụ thủy, đất phát tài.

Phương thức tổ chức không gian theo trúc được bắt đầu từ Kỳ Đài (cột cờ), tiếp đến là Ngọ Môn, sân Đại Triều Nghi, điện Thái Hòa, điện Cần Chánh, điện Càn Thành, điện Kiên Trung và kết thúc ở cửa Hòa Bình. Các công trình còn lại trong khu vực kinh thành Huế được xây dựng đăng đối ở hai bên đường trục.

Kiểu thành lũy phòng thủ Vauban nổi bật tại kinh thành Huế

Lối kiến trúc Vauban lấy theo tên của kiến trúc sư Vauban (1633 – 1707). Di sản của ông có hơn 30 tòa thành và trên 300 đồn lũy ở thời kỳ nội chiến Pháp theo phong cách thành lũy phòng thủ. Sự giao thoa văn hóa ở thời kỳ nhà Nguyễn đã tạo điều kiện đề lối kiến trúc phương Tây này du nhập và kết hợp hài hòa với kiến trúc Việt Nam tạo thành một tổng thể công trình đồ sộ, độc đáo.

Theo đó, kinh thành Huế được xây dựng theo lối zích zắc lồi lõm, hình vuông, có 11 cửa ra vào, 24 pháo đài, tường thành cao, ở các góc đều có đài quan sát bao quát, xung quanh thành là hệ thống hào nước sâu bao quanh.

Cửa Chính Bắc (cửa Hậu) nằm ở mặt sau kinh thành.

Cửa Tây-Bắc (An Hòa).

Cửa Chính Tây.

Cửa Tây-Nam (cửa Hữu) nằm ở bên phải Kinh Thành.

Cửa Chính Nam (cửa Nhà Đồ).

Cửa Quảng Đức.

Cửa Thể Nhơn ( cửa Ngăn).

Cửa Đông-Nam (cửa Thượng Tứ).

Cửa Chính Đông (cửa Đông Ba).

Cửa Đông-Bắc ( cửa Kẻ Trài).

Cửa Trấn Bình Môn.

Kiến trúc truyền thống Việt Nam trong Kinh thành Huế

Các kỳ đài, lầu cửa, vọng đài… cùng với nghệ thuật trang trí, điêu khắc gỗ, xử lý nền móng, xây gạch, làm ngói men… thể hiện rõ sự kế thừa trong lối kiến trúc truyền thống Việt Nam.

Nhịp điệu các lớp mái tạo ra sự biến hoá đa dạng của cấu trúc gỗ truyền thống. Cấu trúc bộ vì kèo tạo nên vẻ đẹp của sự biến thiên trong không gian nội thất.

Các lớp không gian trong kinh thành Huế

Kinh đô Huế được xây dựng thành 3 lớp vòng thành. Bao gồm: phòng thành, hoàn thành và tử cấm thành.

Phòng thành – lớp không gian thành ngoài

Phòng thành được xây dựng dạng gần hình vuông mỗi cạnh dài 2235m, chu vi gần 9000m, có 11 cửa, có 24 pháo đài, tường cao trên 5m, thành dày 21m. Bao bọc phía ngoài tường thành là lớp không gian sông Hộ thành có vai trò phòng thủ chặt chẽ cho đô thị Huế. Kinh thành là nơi sinh sống của quan lại và dân cư.

Hoàng thành – lớp không gian vòng thành giữa

Hoàng thành hay còn được gọi là Hoàng cung – Đại Nội. Hoàng thành được xây dựng hình chữ nhật, trước và sau dài 622m, hai bên phải trái dài 606m. Hoàng thành có 4 cửa: Ngọ Môn (hướng Nam), Hòa Bình (hướng Bắc), Chương Đức (hướng Tây), Hiển Nhơn (hướng Đông).

Tử cấm thành – lớp không gian vòng thành trong cùng

Có thể nói kiến trúc Kinh thành Huế mang đậm tính đương đại. Đây là một trong những công trình đặc sắc có giá trị cả về văn hóa và kiến trúc tạo nên một tổng thể kiến trúc cảnh quan tuyệt vời, xứng đáng trở thành một công trình kiến trúc vàng son của triều đại nhà Nguyễn – triều đại phong kiến cuối cùng trong lịch sử Việt Nam.

Tìm Hiểu Về Phong Thủy Kinh Thành Huế (P1)

Vua Gia Long là người quyết định chủ yếu kiến trúc kinh thành Huế, trong đó ông rất đề cao vấn đề phong thủy. Sau khi lên ngôi, ông đích thân nghiên cứu tìm hướng tốt và cuộc đất thuận tiện xây dựng kinh thành Huế với đề án di dời 8 ngôi làng để lấy mặt bằng thực hiện…

Đáp ứng lòng người trước khi định đô

Dân cư của 8 làng phải di dời đi nơi khác gồm: Phú Xuân, Vạn Xuân, Diễn Phái, An Vân, An Hòa, An Mỹ, Thế Lại, An Bửu, trong đó đất làng Phú Xuân hầu hết đều nằm gọn trong phạm vi kinh thành sẽ xây. Vì thế, vua Gia Long đã cấp 30 mẫu ruộng, 3 khoảng đất để dựng nhà và 1000 quan để giúp dân Phú Xuân – 7 làng còn lại theo tài liệu của Tả tham tri Bộ binh Võ Liêm mỗi nhà “được cấp 3 lạng và mỗi ngôi mộ dời đi được cấp 2 lạng”. Nhà vua nghĩ rằng việc đền bù nhà cửa, ruộng vườn cần phải chu đáo, giữ yên lòng dân để bắt tay xây dựng trên tổng diện tích 520ha và chu vi 9.889m. Huỳnh Đình Kết nhận định đây là đợt giải tỏa lớn, triệt để và khẩn trương, tiến hành trong vòng 2 năm, riêng phần mộ vắng chủ quy tập về nghĩa trang Ba Đòn có đến 10.000 ngôi.

Ngọ môn Huế

Di dời xong, Gia Long chọn ngày tốt vào tháng tư âm lịch, nhầm 9.5.1804 dương lịch để bắt tay xây dựng vòng trong thành (vòng trong của Đại Nội) với tổng chu vi 4 cạnh là 307 trượng, 3 thước 4 tấc (1.229m), thành bằng gạch cao 9 thước 2 tấc (3m68) và dày 1 thước 8 tấc (0m72) – theo Võ Liêm. Sau đó, công việc tiếp tục qua nhiều giai đoạn, song nhìn toàn cục kinh thành Huế quay mặt về hướng Đông nam (Tốn) thay vì hướng chính Nam như các vua chúa thường chọn theo thuật phong thủy để xây cung điện của mình. Vì sao vua Gia Long lại quyết định chọn hướng như thế? Nguyễn Đăng Khoa đề cập đến trong Kỷ yếu Bảo tàng mỹ thuật Việt Nam, số 7 1991 rằng, những công trình kiến trúc của kinh thành Huế được tiến hành theo một hệ thống các quy tắc hết sức nghiêm ngặt của các hình thế núi sông, long mạch “mặt bằng và độ cao thấp của địa hình được người xưa quan niệm đó là văn của đất, có cao, thấp, là có sông, suối, đầm, núi, tạo ra những nhịp điệu riêng của từng vùng – những nhịp điệu lớn chung của nhiều vùng nhỏ tạo ra những đại cuộc đất”. Cụ thể hơn, Trần Đức Anh Sơn qua tài liệu về tư tưởng quy hoạch kinh thành Huế thời Gia Long giới thiệu trên tập Cố đô Huế xưa và nay do Hội Khoa học lịc sử Thừa Thiên – Huế và NXB Thuận Hóa ấn hành 2005, đã cho biết nội dung cuộc trao đổi với một người trong hoàng tộc uyên thâm về dịch học, lý số, phong thủy là học giả Vĩnh Cao theo 4 ý chính, nguyên văn:

Kinh đô, theo quan niệm phong thủy ngày xưa đều hướng về Nam nhưng ngay tại vùng Thừa Thiên, mạch núi Trường Sơn, đặc biệt là quần sơn kề cận kinh đô cho đến dãy Bạch Mã đều chạy theo hướng Tây bắc – Đông nam. Dựa vào thế đất ấy, kinh thành nhìn về hướng Đông Nam là tốt nhất.

Theo thuật phong thủy thì bất cứ một ngôi nhà hay cung điện gì thì ở phía trước gọi là chu tước (chim sẻ đỏ) thuộc hướng Nam, hành hỏa. Phía trái (từ ngoài nhìn vào) gọi là bạch hổ (hổ trắng) thuộc hướng Tây, hành kim. Phía phải gọi là thanh long (rồng xanh) thuộc hướng Đông, hành mộc. Phía sau gọi là huyền vũ (rùa đen) thuộc hướng Bắc, hành thủy. Đặt kinh thành dựa theo hướng thiên nhiên, dùng ngũ hành mà sinh khắc chế hóa để sửa đổi, tạo thế quân bình, rồi dùng ngũ hành mà tạo lục thân để đoán vị và quy hoạch, bố tri cung điện.

Phong thủy cũng quan niệm rằng: phía Tây thuộc về chủ; phía Đông thuộc về thê thiếp, bạn bè ti bộc, vật giá, châu báu, kho đụn, vật loại… tức là những thứ mà chủ sai khiến, sử dụng; phía sau thuộc về tử tôn, môn sinh, trung thần, lương tướng. Từ đó, việc bố trí các cung điện, dinh thự… trong Kinh thành, Hoàng thành và Tử cấm thành cũng dựa vào nguyên tắc này mà phân bổ chức năng.

Kinh thành Huế xây dựng ở vùng đất có nước phủ bốn bề, theo phong thủy là nơi tụ thủy, đất phát tài. Nhưng phía Tây kinh thành lại có khí núi xung sát, sông Hương uốn khúc vì thế hành kim rất vượng. Điều này sẽ có hại cho phía Đông, chủ hành mộc (kim khắc mộc). Mộc yếu sẽ dẫn đến sự hạn chế về của cải, dân chúng, thương mại…, kim động sẽ gây hại cho dương trạch nên dễ sinh tật bệnh, tổn hại gia đạo. Vì thế phải xây chúa miếu ở phía Tây để trấn. Đó là lý do ra đời Văn Miếu, chùa Thiên Mụ ở phía Tây kinh thành Huế.

Sơ đồ kinh thành Huế

Nói rõ hơn, Nguyễn Đăng Khoa qua tài liệu đã dẫn, nhận xét: “Sông Hương theo cách nhìn địa lý cổ, là một dòng sông chảy ngược từ phía Nam lên phía Bắc. Theo quan niệm trong Kinh dịch thì gốc của thủy phải ở phía Bắc và chảy về Nam (khởi từ Khảm và tụ về Ly). Tất nhiên, ở Huế, dòng chảy của sông Hương do địa hình quy định, phía Nam sông Hương là vùng đồi núi cao, hợp lưu của hai nhánh sông Tả và Hữu trạch. Hai dòng nước này hợp lại ở thượng nguồn sông Hương, giữa 3 khu núi cao là Kim Phụng, Thiên Thọ và núi Vưng. Nhìn rộng ra thì cả khu vực đồi núi này bắt nguồn từ Trường Sơn, tạt ngang ra biển, tạo nên một đại cuộc đất là Hoành Long.

Dòng sông Hương trong lặng tỏa rộng về phía Bắc ra cảng Thuận An. Dòng nước uốn lượn nhiều lần qua đồi Vọng Cảnh, chảy về phía Nguyệt Biều, rồi lật trở lại chảy qua mặt thành. Theo sách Địa đạo diễn ca của Tả Ao thì long mạch uốn lượn gấp khúc càng nhiều thì càng chứng tỏ đất có nhiểu sinh khí. Mặt đất nhược dần về phía kinh thành tạo ra một vài thế đất kết tụ gọi là Thủy Hử (phần đất được sông đổi hướng chảy ôm lấy tạo thành).

Những loại mạch sơn cước như vậy khi xuống thấp thấy hiền hòa hơn, chính là nơi tạo ra những huyệt địa kết phát. Vua Gia Long đã chọn được khu vực tốt cho việc xây thành, lập kinh đô. Thành có án, có tả thanh long, hữa bạch hổ triều củng, có “thủy đáo điện tiền” và đoạn sông trước thành đồng thời đóng vai trò minh đường cho thành”.

Bờ thành kinh thành Huế

Dãy súng đại bác trước Ngọ môn

Hẳn rằng, Gia Long khi cho xây dựng đều cho tuân thủ các tập tục này: họ chọn ngày tốt và ngày hôm đó họ cũng thực hiện một thao tác quan trọng bậc nhất, đó là việc thượng lương. Trước hôm đó, họ cho chuẩn bị kỹ lưỡng: ban đất, chuẩn bị nền móng, trụ cột, bào đẽo các cột kèo…. Cũng như ở Tây phương, người ta tổ chức long trọng lễ đặt viên đá đầu tiên, nhưng ngày hôm đó không chính xác là ngày khởi công. Vì thế nên hiểu ý nghĩa của ngày tháng được nêu trong văn bản về các việc xây dựng kinh thành Huế”. Công trình kiến trúc kinh thành được tiếp tục vào thời vua Minh Mạng ra sao?

Bí Mật Phong Thủy Đằng Sau Kiến Trúc Độc Đáo Của Kinh Thành Huế Thời Nhà Nguyễn

Lịch sử như dòng sông dài cuốn đi trong lớp sóng của nó bao nhiêu sự tích, chiến công, thành bại của cả một dân tộc. Việt Nam 4.000 năm văn hiến với nhiều triều đại kiệt xuất thấm đẫm văn hóa Phật Đạo đã đem đến cho dải đất xinh đẹp này biết bao nhiêu kỳ tích và truyền kỳ vẫn còn rọi sáng đến tận hôm nay.

Trong các di sản còn lại của thời phong kiến thì kinh thành Huế là còn nguyên vẹn và tiêu biểu nhất. Kiến trúc của kinh thành chính là thể hiện tầm vóc và sinh khí của cả dân tộc.

Duyệt Thị Đường: Nhã nhạc cung đình, giải trí để di dưỡng tinh thần cao thượng

Giải trí là một phần rất quan trọng trong đời sống con người, để giảm bớt áp lực công việc và nghỉ ngơi thư giãn. Đối với Hoàng đế chuyện đó cũng không ngoại lệ. Thế nên nhà hát hoàng gia lớn nhất đã được thi công ngay trong Cấm Thành vào năm Minh Mạng thứ 7 (1826). Nhà hát mang tên Duyệt Thị Đường nghĩa là “Nơi để xem xét điều phải trái”, là nơi biểu diễn các vở tuồng cho vua, hoàng gia và các quan khách.

Nhà hát hình chữ nhật, rộng rãi với bộ mái có bờ quyết cong giống như những đình chùa ở Huế, được chống đỡ bởi hai hàng cột lim sơn son có chiều cao 12m, vẽ rồng ẩn mây cuốn xung quanh và được chia làm 2 tầng. Ở lưng chừng mỗi cột treo thêm một bức tranh sơn thuỷ vẽ cảnh Huế với khung chạm rồng nổi thiếp vàng. Trên cao hơn, Mặt Trời, Mặt Trăng, tinh tú tượng trưng cho vũ trụ được vẽ hoặc chạm nổi lên trần nhà màu xanh lơ. Tòa nhà nối liền với các cung điện của nhà vua và các bà hoàng bằng một dãy hành lang có mái khúc khuỷu, quanh co.

Vì là để biểu diễn cho vua xem nên nội dung các vở tuồng cũng như âm nhạc đều có yêu cầu rất cao về nghệ thuật cũng như ý nghĩa với mục đích là giải trí phải giúp tu dưỡng tinh thần nhà vua, không phải để phóng túng tâm tham dật và ham hưởng lạc. Ngay cả cái tên Duyệt Thị Đường cũng đã thể hiện rất rõ điều này.

Những năm 1820 – 1840, vua Minh Mạng cho xây dựng Nhà hát lớn Duyệt Thị Đường (1824-1826), đổi Việt tương đội thành Thanh bình thự, lập thêm một Đội nữ nhạc với 50 ca nữ, vũ nữ, lại cho xây dựng nhà thờ các tổ sư nghệ thuật âm nhạc và hát bội Huế: Thanh bình từ đường. Trước nhà thờ dựng một tấm bia, một sân khấu hát bội và ca vũ nhạc.

Thế Miếu, Cửu Đỉnh, Hiển Lâm Các: Kế thừa ý chí tiên vương

Từ Diên Thọ cung đi về phía Tây Nam của Tử Cấm Thành là đến quần thể thờ cúng của vua gồm có Thế Tổ Miếu, Cửu Đỉnh và Hiển Lâm Các. Đây là những công trình quan trọng bậc nhất trong Hoàng thành Huế.

Sự quan trọng này khởi nguồn từ yếu tố tâm linh truyền thống và phong thủy của tòa kinh thành. Như đã nói, để hoàn thành đế nghiệp cho dòng họ, các chúa Nguyễn bỏ ra hơn 200 năm gây dựng âm đức, tụ linh sinh long mạch và khởi công dựng kinh đô. Việc tích âm đức quan trọng nhất, chính là được truyền thừa từ đời này qua đời khác. Một trong những hình thức đó chính là thờ cúng tổ tiên và xây dựng nơi yên nghỉ của tiền nhân.

Ngoài ra, mộ phần và sự thờ cúng tổ tiên trong Bát Tự lý số lại đóng vai trò là Thiên Tài (chủ về tài chính, tài lộc) của chủ mệnh Hoàng đế. Nếu mộ phần được chăm sóc thờ cúng tốt thì Hoàng đế sẽ luôn vượng tài. Ngoài ra, Tài mà mạnh sẽ sinh xuất bản mệnh vua, khiến cho nó bớt mạnh mẽ, trở nên nhu hòa hơn, cũng chính là lý trí và không cực đoan. Điều này rất cần thiết bởi vốn dĩ đế vương bản mệnh ai cũng rất mạnh mẽ, nếu không có thứ để giảm bớt đi thì sẽ rất nguy hiểm cho quốc gia. Điều này cũng có nghĩa là khi vua thực hiện việc thờ cúng thì sẽ kế thừa tinh thần của tiên đế mà không dám phóng túng bản thân làm điều bốc đồng. Đó mới thật sự là phúc khí của quốc gia vậy.

Hiển Lâm Các là một công trình cao nhất trong hoàng cung, không có bất kỳ công trình nào được phép xây cao hơn nó. Đây chính là nơi trưng bày, thờ cúng các chiến công của các vua đời trước cũng như ghi công các công thần khai quốc. Chiều cao của Hiển Lâm Các (làm bằng 4 cột gỗ cao 13 m) chính là thể hiện sự trọng vọng và ghi nhớ công ơn của quốc gia đối với các minh quân và công thần.

Trong ý nghĩa phong thủy, Hiển Lâm Các thuộc Giáp Mộc (gỗ to) còn tượng trưng cho các trụ cột của triều đình luôn cao lớn mạnh mẽ để gánh vác quốc gia mãi mãi. Bởi vì Mộc (các quan nhờ Thổ hoàng gia) mà trở nên cao lớn và có giá trị, đồng thời chính là thể hiện ân trạch hoàng gia vĩnh viễn sâu dày. Toàn bộ các cây gỗ ở Hiển Lâm Các sơn màu đỏ, tượng trưng cho trí tuệ của các quan sẽ sinh vượng cho Thổ (hoàng gia) bền vững. Đó là một vòng tuần hoàn trong tự nhiên, cũng chính là đạo quân thần nhắc nhở cho cả vua và quan. Chỉ có tôn trọng đạo quân thần thì quốc gia mới hưng thịnh.

Cửu Đỉnh đặt trước Hiển Lâm Các, đối diện Thế Miếu mang hàm nghĩa rất sâu xa. Tương truyền rằng, sau khi Hạ Vũ chia thiên hạ thành chín châu (cửu châu) thì lấy đồng của các châu đúc thành chín đỉnh (Cửu Đỉnh), khắc tinh hoa phong cảnh của chín châu vào Cửu Đỉnh, mỗi đỉnh tượng trưng cho một châu, toàn bộ cất giữ tại kinh đô nhà Hạ. Vì thế, Cửu Đỉnh trở thành biểu trưng cho quyền uy của chính quyền phong kiến và sự thống nhất quốc gia. Từ đó có câu nói: “Có được Cửu Đỉnh là có được thiên hạ”.

Nhà Nguyễn thống nhất Việt Nam với một dải sơn hà rộng lớn chưa từng có dưới thời Minh Mạng. Bởi vậy đây cũng chính là dịp tốt nhất để tái hiện lại tích xưa, vừa có thể nêu lên uy vọng của triều đại đồng thời lưu lại một vật báu truyền quốc cho con cháu. Với ý nghĩa ấy, tháng 10 âm lịch năm 1835, vua Minh Mạng xuống dụ chỉ cho Nội các, sai đúc Cửu Đỉnh riêng cho triều đại của mình, triều Nguyễn. Dụ chỉ như sau:

“Đỉnh là để tỏ ra ngôi vị đã đúng, danh mệnh đã tụ lại. Thực là đồ quý trọng ở nhà tôn miếu. Xưa các minh vương đời Tam đại lấy kim loại do các quan mục bá chín châu dâng cống, đúc chín cái đỉnh để làm vật báu truyền lại đời sau. Quy chế điển lễ ấy thực to lớn lắm! Trẫm kính nối nghiệp trước, vâng theo đường lối rõ ràng. Nay muốn phỏng theo đời xưa, đúc chín cái đỉnh để ở nhà Thế miếu… Đó là để tỏ ý mong rằng muôn năm bền vững, dõi truyền đời sau. Chuẩn cho quan phần việc theo đúng kiểu mẫu mới định mà đúc”.

Làm Hoàng đế không dễ

Trong lịch sử, tiêu chuẩn đặt ra cho một Hoàng đế là rất cao. Những Thiên tử từ tấm bé đã phải tuân theo một nền giáo dục tiêu chuẩn cao nhất của Nho giáo, vốn ước thúc tất cả hành vi. Từ ăn nói, ngủ nghỉ đến đi đứng, nằm ngồi đều phải theo đúng lễ nghi, dưới sự giám thị của những người thầy tài năng và nghiêm khắc nhất.

Lớn lên một chút thì Hoàng đế được học chữ Hán, Thi Thư, sách Đạo học Thánh hiền, cho đến quân sự chính trị, lịch sử cổ kim. Tất cả nhằm mục đích tạo ra một vị vua tốt nhất có thể dù đó là người có tư chất kém hay tốt như thế nào. Bởi dưới một nền tảng giáo dục như vậy tất sẽ hun đúc ra một vị vua chân chính, phong thái uy nghi, biết khắc chế dục vọng cá nhân và có kiến thức sâu rộng.

Cứ thử nhìn vào bản chiếu chỉ của các vua nhà Nguyễn còn lưu lại (gọi là châu bản), bạn sẽ phải ngạc nhiên khi thấy từng chữ trong đó đều được viết rất đẹp, đều tăm tắp y như in ra từ máy. Người ta nói nét chữ là nết người, tâm trí của người viết bình thản và vững chắc đến mức nào để có thể viết ra được những dòng chữ đẹp như vậy?

Mặt khác, các bậc Thiên tử cũng phải gánh chịu một áp lực khổng lồ ngay từ tấm bé, lúc được chọn làm người kế vị. Bởi thế rất nhiều ông vua sau khi lên nắm quyền đã thực sự đã phóng túng và trở thành bạo chúa. Tuy vậy đó không phải là lỗi của nền giáo dục quy chuẩn hoàng gia mà là nhân cách của vị vua đó yếu kém hơn các vị khác mà thôi. Không thể chỉ vì một vài bạo chúa mà phủ nhận công lao suốt mấy nghìn năm của các Hoàng đế và các triều đại phong kiến được.

Lời kết

Trải 9 đời dựng nước, với đức dày và ân uy ban bố khắp miền Đàng Trong, dẫu có trải qua chiến loạn Tây Sơn thì ngai vàng cuối cùng vẫn là của nhà Nguyễn vì sự xứng đáng duy nhất của họ. Gia Long lên ngôi đã mở ra thời kỳ trung hưng cho phong kiến Việt Nam sau một thời gian dài nội chiến đen tối. Chưa bao giờ Việt Nam lại toàn vẹn và có lãnh thổ rộng lớn nhường ấy.

Thời phong kiến đã trôi qua nhiều năm và bụi thời gian đã phủ lên hầu hết những vàng son của quá khứ làm cho hậu nhân đôi khi đánh giá không đúng về những gì ông cha đã từng đạt được. Chỉ với đôi bàn tay, khối óc và một lối sống đạo đức chuẩn mực của Thánh hiền mà các vương triều phong kiến đã dẫn dắt dân tộc tiến bước vững chắc mấy ngàn năm.

Dẫu có thăng trầm thành bại nhưng các bậc đế vương đã hết sức cố gắng đảm bảo sự lãnh đạo của mình đạt được tiêu chuẩn cao nhất dẫu là với một vị vua có tư chất thấp nhất. Họ đã làm được điều kỳ diệu đó bằng những kiến thức triết học, khoa học phong thủy huyền diệu.

Cổng thông tin Du lịch Thừa Thiên Huế

Cách Treo Tranh Phong Thủy Giúp Kinh Doanh Thành Đạt

Ngoài nỗ lực của bản thân, những ai mong muốn có thêm niềm tin, may mắn để kinh doanh thành đạt, trở thành người giàu sang, phú quý…có thể nhờ cậy đến phong thủy bằng cách treo tranh cát tường trong nhà.

1. Tranh hoa mẫu đơn

Không nên trồng nhiều hoa mẫu đơn quá gần ngôi nhà, nhưng tranh vẽ về loài hoa này thì nên treo trong nhà hoặc công sở với ý nghĩa “chiêu” giàu sang phú quý. Tại Trung Quốc, hoa mẫu đơn thường được gọi là “quốc sắc thiên hương”, là biểu tượng của phú quý, đây cũng là nguồn gốc của việc treo tranh về loài hoa này.

2. Tranh vẽ cò trắng

Trong âm Hán, con cò đọc là lộ, đồng âm với con đường. Do đó, tranh vẽ một con cò trắng đậu trên lá sen sẽ mang ý nghĩa là Nhất lộ liên khoa, nghĩa là thành đạt trên đường khoa cử. Nếu bức tranh vẽ hai con cò trắng cùng đậu trên hoa sen thì mang hàm ý ‘Lộ lộ thanh liêm’, một hình ảnh cao sang thuần khiết. Người Trung Hoa xưa cho rằng, nhà nào muốn cầu khoa cử thành đạt thì nên treo tranh cò trắng đỗ trên hoa hoặc lá sen.

3. Tranh hoặc chữ ‘Cát tường như ý’

Người xưa thường chuộng treo một bức tranh vẽ viên ngọc như ý bên cạnh chữ Cát, vời hàm ý sẽ luôn gặp điều lành khi hành động một việc chính đáng nào đó (cát tường như ý). Những người muốn “tăng” sự cát tường lên gấp bội còn mang ngọc như ý về treo trong nhà.

4. Tranh sơn thủy

Là loại tranh vẽ cảnh núi non, sông suối, trên bầu trời có khi điểm thêm vài đôi chim hạc (hay cò) cùng với một vài loài cây cỏ (thường là tùng hoặc bách). Thông thường, nội dung tranh miêu tả cảnh thiên nhiên buổi sáng vì dương khí thịnh (không nên treo tranh vẽ cảnh chiều hay hoàng hôn, dù đẹp nhưng mang ý nghĩa sự tàn lụi).

Cùng Danh Mục

Bình Luận Facebook